Nếu bạn từng xem hội bài chòi ở Hội An, sẽ thấy cảnh tượng nơi đây thật
lạ, có ca sĩ, nhạc sĩ, có diễn viên, có sân khấu hẳn hoi, nhưng khán giả
chẳng hề ngồi không thưởng thức như thường thấy.
Đám đông chung quanh không chỉ lắng nghe từng câu hát, mà chốc chốc
lại thấy reo lên với những chiếc thẻ gỗ trên tay để rồi hớn hở đón nhận
những chiếc cờ vàng từ tay các “anh thị vệ” của đoàn diễn. Những cụ già
thì dường như chỉ biết đến lời ca và ngồi gõ nhịp phách say sưa cùng
tiếng trống.
Phố cổ
Hội An nhỏ lắm và cũng yên tĩnh lắm. Vọng đến tai hầu như chỉ thấy
có tiếng cười, tiếng nói của những người khách du lịch.
Vậy mà bỗng dưng đêm nay, nơi cuối con phố lại bỗng rộn ràng những âm
thanh của lời ca, tiếng trống hòa trong giai điệu lả lướt của chiếc đàn
nhị. Dường như toàn bộ cư dân của khu phố cổ đang tập trung tại sân
chơi cũng nho nhỏ và ngập đầy sắc màu vàng xuộm hắt ra từ những chiếc
đèn “măng-xông hiện đại” này. Đây là đêm hội bài chòi thường được tổ
chức vào tối thứ bảy hằng tuần tại khu phố cổ Hội An.
Một sân chơi đầy lý thú
Một sân chơi đầy lý thú
Đêm hội bài chòi hiện nay đã trở thành một sân chơi quen thuộc của
người dân Hội An. Cứ vào tối các ngày thứ bảy, mọi người lại tụ tập về
khoảng sân giữa phố Hội và sông Hoài (hay còn gọi là sông Bạch Đằng) để
được có những giờ phút thư giãn một cách đầy hứng khởi cho kỳ nghỉ cuối
tuần. Chính sân chơi này đã đem lại chút không khí sôi nổi giúp khu phố
cổ thêm phần sinh động mà vẫn không hề làm mất đi vẻ đẹp yên bình rất
đặc trưng của Hội An. Vì rằng, đêm hội bài chòi vừa mang hơi thở nóng
hổi của cuộc sống hiện đại, vừa chứa đựng vẻ dịu dàng, duyên dáng của
một nét văn hóa truyền thống đầy ý nghĩa.
Không ai biết chính xác hội bài chòi xuất hiện vào thời điểm nào. Tuy
nhiên, từ khoảng 300 – 400 năm trước đây, loại hình vui chơi này đã
được tổ chức thường xuyên ở các tỉnh Thừa Thiên – Huế vào những dịp lễ
hội ngày xuân. Sau đó, bởi nhiều lý do nên hội bài chòi không còn phổ
biến được như trước, thậm chí là đứng trước nguy cơ “thất truyền”. Cho
đến khi khu phố cổ Hội An được tổ chức
UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới, Trung tâm văn hóa thể thao
Hội An đã quyết định khôi phục lại sân chơi văn hóa này tại đây, vừa để bảo tồn,
vừa để quảng bá một nét văn hóa đặc sắc của dân tộc tới khách du lịch
cả trong và ngoài nước.Có thể hiểu nôm na rằng hội bài chòi là sân chơi của những ván cờ. Mỗi ván gồm có 30 quân cờ với 30 tên gọi khác nhau chia thành 10 loại thẻ gỗ (3 quân cờ là một thẻ) và người chơi sẽ được chọn mua các loại thẻ đó. Sau khi “nhà cái” phát hết thẻ cho mọi người, ván cờ sẽ được bắt đầu bằng việc rút thăm que tre có ghi tên một quân cờ. Lúc này, anh “hiệu” (người hô) sẽ dẫn dắt cuộc chơi bằng những câu hát có liên quan đến tên quân cờ ghi trên chiếc thăm đó, lần lượt cho đến khi ba thẻ tre được rút liên tiếp có tên gọi trùng với các tên quân cờ ghi trên cùng một thẻ gỗ…
Khi tham gia, nếu thấy tên quân cờ của mình được nhắc đến trong câu hát, người chơi sẽ phải hô lên và trình thẻ gỗ để được phát một lá cờ vàng, tương đương với một phần thưởng nhỏ. Nếu người chơi có được chiếc thẻ gỗ ghi tên 3 quân cờ được nêu tên liên tục, người đó sẽ đoạt được phần thưởng lớn nhất của cuộc chơi và ván cờ kết thúc… Nhiều người có thể cho rằng hình thức vui chơi này có vẻ dễ dàng và đơn giản, dựa vào sự may rủi là chính. Nhưng thực ra, ý nghĩa và cách thức chơi hội bài chòi không hẳn vậy. Và thực tế đây là một hoạt động văn hóa đáng được tôn trọng và giữ gìn.
Điều gửi gắm sau những cuộc vui
Thuở ban đầu, luật chơi hội bài chòi khá nghiêm
khắc. Tên quân cờ sẽ không được nhắc đến trực tiếp trong mỗi câu hát mà
người nghe sẽ phải tự suy đoán lấy. Thí dụ, nếu tên quân cờ là chữ
“nghèo”, người hô sẽ hát một số câu có nội dung nói về chữ nghèo, người
nghe tự suy luận ra và giơ thẻ của mình lên để nhận cờ vàng. Người nào
không đoán được sẽ mất cơ hội được nhận phần thưởng.
Tuy nhiên, nhiều người hiện giờ chưa theo được luật chơi này, bởi vậy, nhiều khi người hô đã sử dụng các câu hát gọi trực tiếp tên quân cờ để người chơi dễ theo dõi. Dù đã có đôi chút biến đổi song hội bài chòi vẫn giữ được đặc thù riêng của mình: là một loại hình sinh hoạt văn hóa lý thú và bổ ích.
Có thể khẳng định như vậy là bởi nội dung các câu hát sử dụng trong hội bài chòi đều mang ý nghĩa nhân văn và có tính giáo dục cao (nét khác biệt căn bản để có thể phân biệt hội bài chòi với các trò cờ bạc khác). Các câu hát được sử dụng ở đây thường nói về tình yêu quê hương đất nước, ca ngợi tình phụ mẫu, tình phu thê, đề cao những đức tính, phẩm chất tốt đẹp của con người, phê phán những tệ nạn xã hội, những tập tục lỗi thời, lạc hậu…
Tuy nhiên, nhiều người hiện giờ chưa theo được luật chơi này, bởi vậy, nhiều khi người hô đã sử dụng các câu hát gọi trực tiếp tên quân cờ để người chơi dễ theo dõi. Dù đã có đôi chút biến đổi song hội bài chòi vẫn giữ được đặc thù riêng của mình: là một loại hình sinh hoạt văn hóa lý thú và bổ ích.
Có thể khẳng định như vậy là bởi nội dung các câu hát sử dụng trong hội bài chòi đều mang ý nghĩa nhân văn và có tính giáo dục cao (nét khác biệt căn bản để có thể phân biệt hội bài chòi với các trò cờ bạc khác). Các câu hát được sử dụng ở đây thường nói về tình yêu quê hương đất nước, ca ngợi tình phụ mẫu, tình phu thê, đề cao những đức tính, phẩm chất tốt đẹp của con người, phê phán những tệ nạn xã hội, những tập tục lỗi thời, lạc hậu…
Vì vậy, hình thức vui chơi này không chỉ có ý nghĩa giải trí đơn
thuần. Đồng thời, còn có thể coi hội bài chòi chính là một sân khấu
trình diễn của làn điệu dân ca đặc trưng khu nam (Nam Trung Bộ).Phần
thưởng dành cho người thắng cuộc trong hội bài chòi thực ra không lớn và
không mang giá trị vật chất. Thông thường, cuối mỗi cuộc vui, người
thắng cuộc sẽ được nhận một chiếc đèn lồng, “đặc sản” của Hội An. Song,
điều quan trọng nhất đối với người chơi hiện nay là ở chỗ họ đã có được
một sân chơi văn hóa sôi nổi và đặc biệt lôi cuốn.
Trò chời bài chòi thường tổ chức ở
một khoảng đất rộng hình chữ nhật, trên đó người ta dựng 10 chiếc chòi
cao quá đầu người ở chung quanh, mặt quay vào giữa, bằng tre lá đơn sơ,
dành cho những người tham dự cuộc chơi, mỗi người ngồi trong một chòi.
Bộ bài chòi gồm 30 lá bài, dài bảy phân rưỡi và hai phân rưỡi bề ngang,
trên có vẽ hình ảnh.Trước khi bắt đầu, người tham dự đóng một khoản tiền tuỳ theo qui định và bài được chia cho mỗi người ba lá. Riêng người “hô” bài chòi – gọi là anh hiệu – giữ nguyên một bộ bài.
Để mở đầu, anh hiệu thường rao trước vài câu thơ chẳng hạn như:
Gió Xuân phảng phất ngọn tre
Hai bên cô bác lắng nghe bài chòi
Khi mọi người đã yên vị, anh bắt đầu rút từng lá bài và hô to bằng
những câu thơ lục bát. Thí dụ như khi rút ra lá bài “nhứt trò” (có hình
một người học trò) thì anh cất tiếng ngâm nga:
“Đi đâu cắp sách đi hoài
Cử nhân chẳng thấy tú tài cũng
không”
Ai có lá bài này thì đánh vào chiếc mõ treo trong chòi, anh hiệu cho
người đem lá “nhứt trò” đến giao và người đó đã có được một đôi. Chòi
nào có được ba đôi trước thì thắng cuộc.
Thú chơi bài chòi không quan trọng chuyện được thua mà thú vị ở chỗ
thưởng thức những câu hô trầm bổng, nhịp nhàng, du dương như nghe đọc
thơ. Anh hiệu giỏi thường sáng tác ra nhiều câu thơ lục bát rất hay (câu
thài) và lại khéo léo hô một cách chậm rãi khiến cho người nghe hồi hộp
chờ đợi rồi đoán già đoán non đó là con bài gì.
Chính vì vậy xưa kia nhiều người nhờ tài hô bài chòi duyên dáng mà
được nổi tiếng khắp làng, thậm chí khắp vùng.
Bài chòi là trò chơi xuân mang đậm tính tập thể và tính dân gian. Một
ván bài có khi kéo dài cả tiếng đồng hồ. Tuy trong cuộc chơi có ăn
tiền, nhưng cái chính là đề mua vui, để người chơi thả trí tưởng tượng
và hy vọng của mình dựa theo lời diễn xướng của anh hiệu, mong tìm sự
hên xui đầu xuân.
Một số câu thai trong hát bài chòi:
Ai đi ngoài ngõ ào àoHay là ông tượng đạp rào ổng vô.
(Tứ tượng)
Bậu khoe giỏi, sao chẳng chịu đi thi
Cứ ăn xó bếp, ngủ thì chuồng trâu
Bậu ơi ! Tôi chẳng ưng đâu,
Trạng gì như thế, có hầu cũng uổng công
(Lục trạng)
Biết rằng ai có mong aiCứ ăn xó bếp, ngủ thì chuồng trâu
Bậu ơi ! Tôi chẳng ưng đâu,
Trạng gì như thế, có hầu cũng uổng công
(Lục trạng)
Sao trời lại nở rẽ hai thế này
Có sao Hôm mà chẳng có sao Mai
Hai đàng hai đứa, tình phai, hoa tàn
(Bánh hai)
Bước vô nhà xin cất tiếng hỏi thăm
Cớ sao giọt lụy ướt đầm gối loan
(Chín gối)
Cớ sao giọt lụy ướt đầm gối loan
(Chín gối)
Chầu rày đà có trăng non
Để tôi lên xuống có con em bồng
(Bát bòng)
Để tôi lên xuống có con em bồng
(Bát bòng)
Chiều chiều vác cuốc đào lươn
Bùn trơn, lươn trợt, người thương đâu rồi
(Ngũ trợt)
Bùn trơn, lươn trợt, người thương đâu rồi
(Ngũ trợt)
Chồng nằm chính giữa
Hai vợ hai bên
Lấy chiếu đắp lên
Hô là ba bụng
(Ba bụng)
Hai vợ hai bên
Lấy chiếu đắp lên
Hô là ba bụng
(Ba bụng)
Còn duyên, làm cách làm kiêu
Hết duyên bí thối, bầu thiu ai thèm
(Nhì bí)
Hết duyên bí thối, bầu thiu ai thèm
(Nhì bí)
Còn duyên mua thị bán hồng
Hết duyên buôn mít cho chồng gặm xơ
Gặm xơ, rồi lại gặm cùi
Còn ba, bảy hột để lùi cho con
(Bảy hột)
Còn đâu nay thiếp, mai chàngHết duyên buôn mít cho chồng gặm xơ
Gặm xơ, rồi lại gặm cùi
Còn ba, bảy hột để lùi cho con
(Bảy hột)
Ghe lui khỏi bến, dấu dầm nằm đây
(Sáu ghe)
Đang ngồi bực lỡ thả câu
Chẳng may rớt xuống vực sâu cái ầm
(ông ầm)
Chẳng may rớt xuống vực sâu cái ầm
(ông ầm)
Đầu rồng, đuôi phụng, cánh tiên
Ngày năm bảy vợ, tối ngủ riêng một mình
(ba gà)
Đêm nằm gối gấm không êmNgày năm bảy vợ, tối ngủ riêng một mình
(ba gà)
Gối lụa không mềm bằng gối tay em
(Chín gối)
Đi đâu mang sách đi hoài
Cứ nhân không thấy, tú tài cũng không
(Nhứt trò)
Đò em đưa rước bộ hànhCứ nhân không thấy, tú tài cũng không
(Nhứt trò)
Thuyền nan một chiếc tử sanh trọn bề
Trải qua bãi hạc, gành nghê
Quanh năm chèo chống, tư bề sóng xô
Tiếng ai văng vẳng gọi đò
Mau mau nhổ nọc, chèo qua đón người
(Nhứt nọc)
Đôi ta như đũa mới so
Không chọn mà gặp, không đo mà đều
Phải duyên, đã quyết thì liều
Cầm bằng con trẻ chơi điều đứt dây.
(Tám dây)
Không chọn mà gặp, không đo mà đều
Phải duyên, đã quyết thì liều
Cầm bằng con trẻ chơi điều đứt dây.
(Tám dây)
Đời bây giờ, võ nghệ huyên thuyên,
Không ai gióng được ngọn quyền cho thông.
(Tứ gióng)
Không ai gióng được ngọn quyền cho thông.
(Tứ gióng)
Em thương anh, cha mẹ cũng phải theo
Chiếc ghe buồm đang chạy, quăng neo cũng phải ngừng.
(Tam quăng)
Chiếc ghe buồm đang chạy, quăng neo cũng phải ngừng.
(Tam quăng)
Hai tay bụm cát đáp mồ,
Tay bồng con dại, nước mắt hồ láng lai.
(Bát bồng)
Tay bồng con dại, nước mắt hồ láng lai.
(Bát bồng)
Làm thân con gái chẳng lo,
Sáng mai ngủ dậy, ra đo mặt trời,
Quần áo thì rách tả tơi,
Lấy rơm mà túm, mỗi nơi mỗi đùm.
(Ngũ trưa)
Sáng mai ngủ dậy, ra đo mặt trời,
Quần áo thì rách tả tơi,
Lấy rơm mà túm, mỗi nơi mỗi đùm.
(Ngũ trưa)
Lòng thương chị bán thịt heo,
Hai vai gánh nặng còn đèo móc cân.
(Tứ móc)
Hai vai gánh nặng còn đèo móc cân.
(Tứ móc)
Một, anh để em ra,
Hai, anh để em ra,
Về em buôn, em bán
Em trả nợ bánh tráng,
Em trả nợ bánh xèo.
Còn dư, trả nợ thịt heo.
Anh đừng cầm em nữa,
Kẻo mang nghèo vào thân.
(Nhì nghèo)
Hai, anh để em ra,
Về em buôn, em bán
Em trả nợ bánh tráng,
Em trả nợ bánh xèo.
Còn dư, trả nợ thịt heo.
Anh đừng cầm em nữa,
Kẻo mang nghèo vào thân.
(Nhì nghèo)
Một chàng, hai thiếp khó phân,
Anh về nghĩ lại đề cầm cân cho bằng.
(Ba bụng)
Một, hai bậu nói rằng không,Anh về nghĩ lại đề cầm cân cho bằng.
(Ba bụng)
Dấu chân ai đứng bờ sông hai người ?
(Tứ cẳng)
Nam mô, hai chữ từ bi,
Phật còn mê gái, huống chi thầy chùa.
(Cửu chùa)
Phật còn mê gái, huống chi thầy chùa.
(Cửu chùa)
Ngày thường thiếu áo thiếu cơm,
Đêm nằm không chiếu, lấy rơm làm giường.
Dù dơi, dép bướm, chật đường,
Màn loan, gối phượng, ai thương kẻ nghèo ?
(Nhì nghèo)
Đêm nằm không chiếu, lấy rơm làm giường.
Dù dơi, dép bướm, chật đường,
Màn loan, gối phượng, ai thương kẻ nghèo ?
(Nhì nghèo)
Ngó lên hòn núi Chóp Vung,
Thấy bảy cô gái cùng chung một nhà.
(Thất vung)
Thấy bảy cô gái cùng chung một nhà.
(Thất vung)
Ngồi buồn nghĩ giận quân Tây,
Đem thân đi lính, xe dây buộc mình.
Phương trời, góc bể lênh đênh,
Biết người xưa có thấu tình cho chăng ?
(Tám dây)
Đem thân đi lính, xe dây buộc mình.
Phương trời, góc bể lênh đênh,
Biết người xưa có thấu tình cho chăng ?
(Tám dây)
Ơn cha nghĩa mẹ chưa đền,
Như gà quẹt mỏ, chẳng nên con người.
(Ba gà)
Như gà quẹt mỏ, chẳng nên con người.
(Ba gà)
Rủ nhau đi đánh bài chòi
Để Cho con khóc đến lòi rún ra.
(Chín rún)
Để Cho con khóc đến lòi rún ra.
(Chín rún)
Tay cầm quyển sách bìa vàng,
Sách bao nhiêu chữ, thương nàng bấy nhiêu
(Nhứt trò)
Tay em đã trắng lại trònSách bao nhiêu chữ, thương nàng bấy nhiêu
(Nhứt trò)
Không cho anh gối, sao mòn một bên.
(Chín gối)
Cứu con vua Thủy một mình dưới hang.
(Thái tử)
Thấy nàng, anh cũng muốn thương .
Sợ e “nhất mã lưỡng cương” (l) khó cầm.
(Bánh ba)
Thuyền ai thấp thoáng bên bờ,
Hay thuyền ông Lữ đợi chờ con vua ?
(Thái tử)
Hay thuyền ông Lữ đợi chờ con vua ?
(Thái tử)
Tiếc công bỏ mẳn nuôi cu,
CU ăn, cu ]ớn, cù gù, cu bay.
Cu say mũ cả, áo dài,
Cu chê nhà khó, phụ hoài duyên anh.CU ăn, cu ]ớn, cù gù, cu bay.
Cu say mũ cả, áo dài,
(Chín cu)
Tới đây, giã gạo, ăn chè,
Ai mà không giã, ngồi hè trật ăn.
(Ngũ trật)
Ai mà không giã, ngồi hè trật ăn.
(Ngũ trật)
Trời mưa lộp độp sân đình,
Anh đi cho khéo, trợt uỳnh xuống đây.
(Chín trợt)
Anh đi cho khéo, trợt uỳnh xuống đây.
(Chín trợt)
Vợ đôi chồng một ra gì,
Mỗi người mỗi bụng, ở thì sao nên.
(Ba bụng)
Mỗi người mỗi bụng, ở thì sao nên.
(Ba bụng)
Xét ra cho kỹ sự đời
Ba người, ba bụng, không ai thời giống ai.
(Ba bụng)
Ba người, ba bụng, không ai thời giống ai.
(Ba bụng)
Xưa kia ai biết ai đâu,
Bởi chưng miếng thuốc, miếng trầu nên thương.
Vì tình mà dạ vấn vương.
Bốn phương, tám hướng, nàng nương miếu nào ?
(Tám miếu)
Bởi chưng miếng thuốc, miếng trầu nên thương.
Vì tình mà dạ vấn vương.
Bốn phương, tám hướng, nàng nương miếu nào ?
(Tám miếu)
Vài trích đoạn trong hát bài chòi:


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét