HOÁN DỤ: biện pháp dùng tên gọi của đối tượng này thay thế cho tên gọi của đối tượng khác trên cơ sở liên tưởng mối liên hệ lôgic khách quan giữa hai đối tượng. Trong tiếng Việt, dùng tên gọi của cái bộ phận để chỉ cái toàn thể (vd. nhà có ba miệng ăn), dùng tên gọi cái cụ thể để chỉ cái trừu tượng (vd. bàn tay vàng), dùng tên riêng để chỉ tính cách, đặc trưng (vd. Sở Khanh)... là những HD.
BIỆT NGỮ: tập hợp những yếu tố ngôn ngữ riêng, mang tính đặc thù của một nhóm người trong cộng đồng ngôn ngữ. Nhờ BN, nhóm người này có thể phân biệt được với các nhóm khác trong cùng cộng đồng ngôn ngữ đó. Về cấu trúc, BN là một thứ ngôn ngữ phát sinh từ ngôn ngữ tự nhiên, không hoàn chỉnh và không có tính hệ thống cao. Thông thường, BN không khác ngôn ngữ tự nhiên về ngữ âm và ngữ pháp, chỉ khác chủ yếu về một số đơn vị từ vựng.
ẨN DỤ:
1. (văn, ngôn ngữ), biện pháp dùng tên gọi của đối tượng này làm tên gọi của đối tượng khác dựa trên sự liên tưởng về mối tương đồng (có tính chất hiện thực hoặc được tưởng tượng ra) giữa hai đối tượng về mặt nào đó (như màu sắc, tính chất, trạng thái, vv.). Dựa vào chức năng, có thể chia ẩn dụ thành ba loại: 1) ÂD định danh cung cấp những tên gọi mới bằng cách dùng vốn từ cũ. Vd. đầu làng, chân trời, tay ghế, mạng lưới giao thông, làn sóng đấu tranh, vv. 2) ÂD nhận thức, là nguồn tạo nên hiện tượng đa nghĩa. Vd. tâm hồn giá lạnh, tuổi xuân mơn mởn, cuộc sống lênh đênh, vv. Hai loại ÂD này đều ít có giá trị tu từ. 3) ÂD hình tượng hoặc ÂD tu từ là phương tiện diễn đạt có giá trị hình tượng, có sức mạnh biểu cảm. ÂD tu từ được dùng trong văn chính luận cũng như trong thơ ca đặc biệt là thơ trữ tình. Vd. "Hoa" mang ý nghĩa ÂD, chỉ người phụ nữ có nhan sắc, trong câu: "Giá đành trong nguyệt trên mây, Hoa sao hoa khéo đoạ đầy bấy hoa" (Truyện Kiều).
2. (mĩ thuật), ÂD là bố cục tạo hình xây dựng những hình ảnh cụ thể nhưng gợi liên tưởng đến những ý niệm trừu tượng. Bức tranh "Công lí và sự báo phục truy nã tội phạm" của Pruđông (P. P. Proudhon) là bức tranh ÂD. Tranh Tết Việt Nam như tranh "Gà", "Lợn", gợi liên tưởng đến cảnh con cháu đầy đàn, cảnh làm ăn sung túc ấm no; tranh "Tùng", "Cúc", "Trúc", "Mai" gợi liên tưởng đến sự tuần hoàn của trời đất, đến khí chất thanh cao của hiền nhân quân tử.
ĐIỆP TỪ NGỮ:
biện pháp lặp lại một số từ, cụm từ hoặc một cấu trúc ngữ pháp để nhấn mạnh nội dung làm tăng giá trị biểu cảm.
– Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công.
(Hồ Chí Minh)
– Sống dại sinh chi đứng chật đời
Sống xem Âu Mĩ hổ chăng ai ?
Sống làm nô lệ cho người khiến.
Sống chịu ngu si để bạn cười !
Sống tưởng công danh không tưởng nước,
Sống lo phú quý chẳng lo đời,
Sống mà như thế đừng nên sống,
Sống dại sinh chi đứng chật đời.
BIỆN PHÁP TU TỪ: cách sử dụng các phương tiện ngôn ngữ, nhằm đạt tới hiệu quả diễn đạt hay, đẹp, biểu cảm, hấp dẫn. Tuỳ theo các phương tiện ngôn ngữ được kết hợp mà BPTT được chia ra: BPTT ngữ âm, BPTT từ vựng - ngữ nghĩa, BPTT cú pháp, BPTT văn bản. Vd. điệp âm, điệp vần, điệp thanh, hài âm... là những BPTT ngữ âm; tương phản, so sánh, ẩn dụ, nói lái, phản ngữ... là những BPTT từ vựng ngữ nghĩa; sóng đôi, câu hỏi tu từ... là những BPTT cú pháp; hài hoà tương phản, quy định về đoạn trong văn bản là những BPTT văn bản.
PHÉP HOÁN DỤ:
Hoán dụ là cách tạo tên gọi mới cho đối tượng dựa trên mối quan hệ giữa bộ phận và toàn thể nhằm diễn tả sinh động nội dung thông báo mà người viết muốn đề cập. Nguyên tắc của hoán dụ là lâm thời chuyển đổi tên gọi, trong đó “sự vật được nói tới” phải không xuất hiện trên văn bản. Tác giả Sứ Điệp Tình Thường cũng đã vận dụng biện pháp tu từ này một cách nhuần nhuyễn.
Ví dụ 1:
1* Dọc đường dư luận tỉ tê
Rằng: “ Gioan đã bị “Râu dê” cầm tù. ” (1067 – 1068)
2* Gioan từng kết án hôn quân
Cướp con đoạt vợ loạn luân vô nghì. (1981 – 1982)
3* Nhân ngày Khánh đản dịp may
Hôn quân mở tiệc vui say đình thần. (1987 – 1988)
4* Lạ thay! Giữa chốn triều đình
Hôn quân mặt sắt quên mình ngôi cao. (1993 – 1994
Tác giả sử dụng từ “Râu dê” và “hôn quân” ở đây là để nói về Vua Hêrôđê đã cướp vợ của anh trai mình.
Ví dụ 2:
Côn quang được lệnh bao vây
Ra đi, đi suốt một ngày về không
Đưa nhau trình diện hội đồng
Quan thầy hỏi chúng: “Sổ lồng rồi sao?”
Thưa rằng: “Kim cổ đời nào
Chưa ai triết lý thâm cao bằng Người. ”
Dứt lời bị mằng tơi bời:
“Lọ nồi mà cũng bị nhồi nữa sao?” (3611 – 3618)
Tác giả dùng từ “Lọ nồi” chính là sử dụng thủ pháp hoán dụ nói đến mấy tên côn quang.
Ví dụ 3:
Dù Ta tự chứng một mình
Chứng ta có mối đồng tình của Cha
Chính Ngài là Đấng sai Ta
Họ thưa: “Dám hỏi Cụ nhà ở đâu?” (3713 – 3716)
Từ “Cụ nhà” mà tác giả sử dụng là nhằm nói đến Thiên Chúa Cha.
Ví dụ 4:
1* Họ rằng: “Lạc đạo Ông ơi
Gọi Ông quỉ ám đúng lời lẽ chăng?” (3821 – 3822)
2* Ông bị quỷ ám chưa tha
Mọi người đều chết, chết già chết non (3833 – 3834)
Trong các đoạn thơ trên, từ “Ông quỷ ám” đều nhằm nói về Chúa Giêsu.
Ví dụ 5:
Biệt phái đứng thẳng hiên ngang
Lên cung sửa giọng âm vang rền rền:
“Lời tôi khẩn nguyện trước tiên
Là lời cảm tạ Chúa trên cõi trời
Cho tôi không giống người đời
Ngoại tình trộm cắp chơi bời đắm say
Không như “quân hút máu” nầy
Mỗi tuần tôi đã giữ chay hai lần. (4913 – 4920)
Từ “quân hút máu” nhằm chỉ người thu thuế.
Ví dụ 6:
Bấy giờ dù giữa mùa cày
Hai chàng thì sẽ gọi ngay một chàng
Hai cô xay bột bên đàng
Áo xanh để lại, áo vàng đem đi. (6479 – 6482)
Từ “áo xanh” và từ “áo vàng” trong câu thơ trên chính là sự hoán dụ thay cho hai cô gái.
Ví dụ 7:
Trời mai ngày áp đẹp trời
Phê- rô được lệnh cùng người Chúa yêu. (6671 – 6672)
Từ “người Chúa yêu” là nói đến thánh Gioan tông đồ.
Ví dụ 8:
Chúng con sạch cốt sạch bì
Mặc dù có kẻ gan lì đá chai. (6783 – 6784)
Từ “kẻ gan lì đá chai” nhằm ám chỉ ông Giu- đa bán Chúa.
Ví dụ 9:
Có quân hộ tống bạo tàn
Có dân đông đảo nhập đoàn trợ oai
Giữa bầy sói dữ lạc loài
Chúa thành cái đích chúng mài nhọn răng
Trước hàm sư tử hung hăng
Như chiên bị trói chẳng rằng chẳng kêu. (8175 – 8180)
Từ “bầy sói dữ” và “hàm sư tử” là tên mà tác giả dùng để gọi quân hộ tống và bọn người hùa theo kết án Chúa Giêsu.
Từ “chiên bị trói” thì ai cũng hiểu đó là nói về Chúa Giêsu.
Ví dụ 10:
Hỏi chi thì hỏi mặc dầu
Trăm câu chẳng được một câu đáp về
Bực mình đánh tiếng cười chê:
“Trẫm vô duyên gặp Thằng Hề ngu si
Ban cho Hắn chiếc bạch y
Trả về quan trấn làm chi thì làm. ” (8295 – 8300)
Từ “Thằng Hề” là nói về Chúa Giêsu.
Ví dụ 11:
Họ rồng, tộc rắn hai nhà
Bấy lâu có chuyện bất hoà sâu cay
Trời xui đất khiến vụ này
Rắn, rồng từ đó bắt tay làm lành. (8307 – 8310)
Từ “rồng” là tên gọi Vua Hê- rô- đê.
Từ “rắn” là tên gọi quan tổng trấn Phi- la- tô.
IV- SỬ DỤNG PHÉP KHOA TRƯƠNG:
Khoa trương hay phóng đại là biện pháp nói giảm hay nói quá sự thật nhằm diễn tả sự vật hiện tượng dưới cách nhìn hài hước, châm biếm hoặc hy vọng lạc quan. Tuy là một tác phẩm chuyển thể của Thánh Kinh, nhưng thi sĩ đã vẫn sử dụng phép khoa trương rất đặc sắc trong một số trường hợp.
Ví dụ 1:
Ghé tai môn đệ nhỏ to:
Một đồng một cốt Thầy trò nhà bay
Trao ly cụng chén no say
Với quân bóc lột với tay gạt lường. (1347 – 1350)
Khi sử dụng các từ “một đồng một cốt”, tác giả đã phóng đại lên sự chê bai chỉ trích của các thầy thông luật và biệt phái đối với Thầy trò của Chúa Giêsu. Họ xem Chúa Giêsu và các môn đệ chỉ là những kẻ “sáng rượu trưa trà” chỉ biết nhậu nhẹt với phường tội lỗi, còn tất cả những phép lạ Chúa làm chỉ là sự ma mãnh của bọn đồng cốt mà thôi.
Ví dụ 2:
Ông này là bậc tiên tri
Lẽ ra biết ả tiện tỳ là ai. (2091 – 2092)
Tác giả đã dùng từ “ả tiện tỳ” nhằm cho thấy người Biệt Phái hạ thấp giá trị nhân phẩm của người phụ nữ tội lỗi.
Ví dụ 3:
Chúa ngồi bó gối ngoài khoang
Say sưa ôm giấc mơ vàng ngủ yên. (2351 – 2352)
Tác giả đã nói quá về sự mê ngủ của Chúa Giêsu, thuyền chật phải ngồi bó gối thì không thể nào “say sưa ôm giấc mơ vàng ngủ yên”, bởi vì Chúa đâu phải là kẻ ham ngủ một cách vô trách nhiệm trước những lo lắng của các môn đệ, nhưng Chúa muốn thử các môn đệ tin Ngài như thế nào mà thôi.
Ví dụ 4:
Vào hôm ngày Lễ bắt đầu
Xôn xao nổi dậy những câu thăm dò
Bọn người Do Thái nhỏ to:
“Liệu chừng Hắn có dám mò đến chăng?” (3497 – 3500)
Từ “dám mò” nhằm chê bai và hạ thấp giá trị của Chúa Giêsu, bởi vì Chúa vẫn công khai lên đền thờ rao giảng vào mỗi sáng cho đến khi chịu khổ nạn.
Ví dụ 5:
Chúng tao có Đấng quan thầy
Từng được Chúa phán dạy ngay nhãn tiền
Đó là tổ phụ Mai- sen
Ông Giê- su ấy dân đen xứ nào. (3963 – 3966)
Từ “dân đen” cũng nhằm chê bai và hạ thấp giá trị của Chúa Giêsu.
Ví dụ 6:
Ác vàng vừa trốn sau đồi
Trông lên núi Thánh rợp trời đèn hoa. (6691 – 6692)
Từ “Ác vàng” hay “quạ vàng’ (kim ô) sử dụng phép ẩn dụ để diễn tả mặt trời.
Ví dụ 7:
Hằm hằm một bọn trảo nha
Lôi người bị trói đứng ra giữa phòng
Người đâu tiều tuỵ hình dong
Mà trông ánh mắt uy phong khác người
Khuyển ưng chưa kịp rút lui
Một lô ruồi nhặng nối đuôi kéo vào
Trước toà răm rắp cúi chào
Luân phiên tố cáo ồn ào như sôi
Tố gian, tố dối một hồi
Bên mâu bên thuẫn tố bồi lẫn nhau. (7863 – 7872)
Từ “khuyển ưng” ám chỉ bọn thủ hạ của Cai- pha và từ “ruồi nhặng” ám chỉ lũ người làm chứng gian.
Ví dụ 8:
Phê- rô như dại như ngây
Ân sâu nghĩa nặng giờ đây còn gì
Nghẹn ngào bưng mặt chạy đi
Mắt hoen mờ lệ lòng bi thiết buồn
Mạch sầu như nước vỡ nguồn
Chảy mòn hai má chảy luôn trọn đời. (7979 – 7984)
Qua câu “chảy mòn hai má chảy luôn trọn đời”. Tác giả đã sử dụng thủ pháp khoa trương nhằm làm tăng thêm lòng ăn năn chân thành của Thánh Phê- rô trong suốt cả đời ông.
Ví dụ 9:
Lại còn độc địa khôn lường
Lại còn bêu rếu phi thường chua cay
Rằng: “Nghe lỗ miệng Tên nầy
Tự xưng Thiên Tử cũng tay ngạo đời. (8467 – 8470)
Từ “lỗ miệng” có tính chê bai khinh miệt Chúa Giêsu.
Ví dụ 10:
Kỳ hào ngậm miệng đã lâu
Tiết thêm nọc độc bắt đầu tuôn ra:
“Ngoại trừ hoàng đế Xê- da
Chúng tôi đâu có mồ ma vua nào?” (8561 – 8564)
Từ “tiết thêm nọc độc” nhằm làm tăng thêm tính nham hiểm và độc ác của bọn kỳ hào.
Từ “mồ ma” vừa nói lên sự dua nịnh vừa nói lên sự xảo ngôn của bọn kỳ hào không chấp nhận Chúa Giêsu là Vua mà chỉ thần phục Hoàng đế Xê- da của đế quốc Rôma.
Ví dụ 11:
Lý hình phóng tới vội vàng
Hung hăng như rắn hổ mang vờn mồi
Miệng phun bọt dãi tanh hôi
Bày trò lăng nhục ôi thôi đủ trò. (8585 – 8588)
Từ “rắn hổ mang”, “miệng phun bọt dãi tanh hôi” cũng đều làm tăng thêm tính nham hiểm và độc ác của bọn lý hình.
Trong giao tiếp nghệ thuật, việc phát huy hiệu lực của biện pháp tu từ ngữ nghĩa tuỳ thuộc vào vốn ngôn ngữ và quá trình rèn luyện tư duy của mỗi người. Nhà thơ Nguyễn Xuân Văn đã vận dụng chúng như là các thủ pháp tạo nên các đặc trưng của Sứ Điệp Tình Thường giúp cho người đọc có một chìa đi vào các lớp nghĩa ở cả bề sâu và cấu trúc của nó.
SỬ DỤNG PHÉP ẨN DỤ:
Trong Sứ Điệp Tình Thường, tác giả cũng thường vận dụng phép so sánh không nói thẳng ra, đó là phép ẩn dụ. Khi đọc câu thơ có phép ẩn dụ, người tiếp cận phải dùng năng lực liên tưởng để qui chiếu giữa các yếu tố hiện diện trong câu thơ với các sự vật, hiện tượng tồn tại ngoài câu thơ. Như vậy thực chất của phép ẩn dụ chính là việc dùng tên gọi này để biểu hiện sự vật khác dựa trên cơ chế tư duy và ngôn ngữ dân tộc.
1- Phép ẩn dụ nhân hoá:
Ẩn dụ nhân hoá là kiểu ẩn dụ được xây dựng trên mối quan hệ giữa người và vật. Đó là phép ẩn dụ được hình thành trên cơ chế chuyển nghĩa giữa trường về con người và trường về sự vật mà tác giả đã vận dụng trong tác phẩm của mình.
Ví dụ 1:
Sứ Trời dẫn giải gần xa
“Trái Thần bởi phép Thánh Thần tượng sinh
Hoa trinh giữ vẹn hương trinh
Vườn xuân nắng giãi thêm hình sắc xuân. (147 – 150)
Để diễn đạt mầu nhiệm nhập thể, tác giả đã sử dụng từ “Trái Thần” để nói về Chúa Giêsu và từ “Vườn xuân” là nói về Đức Mẹ.
Ví dụ 2:
Dưới chân con bóng đã tròn
Chúa dừng nghỉ mệt tránh đòn nắng trưa. (957 – 958)
Thi sĩ đã sử dụng từ “con bóng” để nhân cách hoá “ông mặt trời” đang “đánh đòn nắng trưa”.
Ví dụ 3:
Qua cơn sóng nổi gió trôi
Thầy trò im lặng cùng ngồi nhìn xa
Dần dần thấy đất Giét- xa
Con thuyền mệt mỏi vượt qua biển hồ. (2367 – 2370)
Rõ ràng tác giả dùng từ “con thuyền mệt mỏi” để diễn tả trạng thái của các môn đệ vừa thoát qua cơn bão táp trong đêm.
Ví dụ 4:
Được Lời không nhận lấy Lời
Không tin nơi Đấng mà Người đã sai. (2951 – 2952)
Từ “Lời” ở đây không thể hiểu là lời nói mà chắc chắn là nói về “Đấng” mà Chúa Cha đã sai đến thế gian, đó chính là Chúa Giêsu, Ngài là Ngôi Lời của Thiên Chúa.
Ví dụ 5:
Chúa xuân ví đến kịp thời
Hoa xuân đâu bị dập vùi cho cam. (5331 – 5332)
Từ “Chúa xuân” là nói đến Chúa Giêsu, còn từ “Hoa xuân” là ám chỉ La- da- rô.
Ví dụ 6:
Ai trao câu đố vào tai?
Cho người khó đứng cho ai khôn ngồi
Kể từ buổi ấy qua rồi
Biết vàng cao giá, lửa thôi thử vàng. (5995 – 5998)
Từ “vàng” là nói về Chúa Giêsu, từ “lửa” ám chỉ biệt phái.
Ví dụ 7:
Thiên thần chẳng rõ chẳng hay
Con Người cũng chẳng được bày tỏ ra
Chỉ riêng mình Đức Chúa Cha
Đo lường tuổi tác trời già mà thôi. (6457 – 6460)
Có lẽ chỉ có các loại sinh vật theo cái qui luật sinh bệnh lão tử thì mới già, chứ trời đất thì không theo qui luật này nên không ai gọi “trời già”. Tác giả đã nhân cách hoá tuổi tác của ông trời nhằm mục đích nói đến ngày cánh chung mà thôi.
Ví dụ 8:
Dù Thầy có phải ra đi
Là đi sắp chỗ thay vì các con
Bao giờ hoa nở trăng tròn
Sẽ quay trở lại nước non trùng phùng. (6967 – 6970)
Từ “trùng phùng” diễn đạt sự gặp gỡ của con người, cho nên trong câu thơ này từ “nước non” phải hiểu là đại biểu cho Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài.
2- Phép ẩn dụ tượng trưng:
Tác giả Sứ Điệp Tình Thường cũng thường sử dụng ẩn dụ tương trưng là loại ẩn dụ được dùng đi dùng lại nhiều lần trở thành các hình ảnh có giá trị tượng trưng.
Ví dụ 1:
Chân trời mộng ước lùi xa
Nghĩ thôi mai cỗi trúc già thì thôi
Chim bay về núi tối rồi
Ngày xanh mấy thuở vãn hồi cho đâu? (45 – 48)
Trong đoạn thơ trên, rõ ràng các từ “mai cỗi”, “trúc già”, phải hiểu đó là nói về ông bà Giacaria đã già yếu và từ “chim bay” trong câu “ về núi tối rồi” là nói về tuổi già của ông bà đã không còn khả năng sinh con.
Ví dụ 2:
Vợ chồng sum họp đề huề
Nước non như cũ, trăng thề còn nguyên. (85 – 86)
Từ “nước non” và từ “trăng thề” thường biểu hiện cho tình yêu nam nữ, tình yêu vợ chồng.
Ví dụ 3:
Thầy trò vui chuyện đổi thay
Chúa rằng: “ Thiên hạ cho Thầy là ai?”
Thưa rằng: “Kẻ trúc, người mai
Nào Gioan Tẩy giả, nào Ngài Ê- li. (3167 – 3168)
Trong mạch thơ này thì từ “trúc” và từ “mai” là nhằm nói đến các tiên tri và các ngôn sứ trong Cựu ước.
Ví dụ 4:
Ngày kia vào đến một làng
Dân Sâm- ri hận chẳng màng đón đưa
Giắc, Gioan nổi sấm sét thưa:
“Lửa trời khiến đốt cho chừa, nên chăng?” (3487 – 3490)
Từ “nổi sấm sét” trong câu thơ này tượng trưng cho sự tức giận.
Ví dụ 5:
Mặt rồng lộ vẻ vui tươi
Hân hoan chào khách nói lời tri ân. (6149 – 6150)
Từ “mặt rồng” là từ ẩn dụ nhằm nói đến nhà vua.
3- Phép ẩn dụ ngụ ngôn:
Ẩn dụ ngụ ngôn là nói đến bài học đạo đức, nói tới triết lý nhân sinh. Ẩn dụ ngụ ngôn tác động đến người ta một cách thấm thía vì đó là sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố hiện thực của ngôn ngữ và chất suy tưởng. Có thể nói đây là hình thức phát triển của ẩn dụ nhân hoá.
Mặc dù Thánh Kinh Tân Ước đầy ắp những dụ ngôn bằng văn xuôi của Chúa Giêsu, nhưng Linh mục Nguyễn Xuân Văn đã chuyển những dụ ngôn ấy qua thể qua thể lục bát một cách khéo léo mà không làm mất đi nội dung giáo lý và đạo đức, về cách ứng xử giữa con người với con người.
Ví dụ 1: Dụ ngôn “Cỏ lùng”:
Nước Trời giống cảnh thôn quê
Sang thu chủ ruộng lo bề tăng gia
Gieo xong giống tốt về nhà
Kẻ thù lén đến rắc pha cỏ lùng
Lúa lên thành gié thành bông
Cỏ lùng xuất hiện lộn sòng đứng chen
Tình hình đám ruộng rối ren
Gia nhân đem chuyện trình lên chủ nhà:
“Ông gieo giống tốt kia mà,
Cỏ đâu đến mọc ai pha trộn vào?”
Chủ rằng: “Chắc kẻ thù nào,
Muốn gây thêm chuyện hỗn hào với ta”.
Có người xin dọn ruộng nhà
Chủ rằng: “Đừng vội! Chẳng thà để yên.
Lúa và cỏ sẽ lớn lên
Tạm thời để nó chẳng nên nhổ lầm
Đến mùa ta sẽ tới thăm
Bảo đoàn thợ gặt lưu tâm thi hành
Cỏ thì bó lại từng khoanh
Quăng vào lửa đốt cho thành bụi tro
Lúa thu vào lẫm vào kho,
Có chi mà phải âu lo nhọc mình”. (2261 – 2282)
Ví dụ 2: Dụ ngôn “Con chiên lạc”:
Có người chăm sóc chiên non
Trăm con thấy thiếu một con trong ràn
Cả bầy để lại rừng hoang
Thương con chiên lạc sẵn sàng xông pha
Mấy đèo mấy suối cũng qua
Không đành bỏ nó đắm sa lạc loài
Thấy chiên mắc giữa bụi gai
Gỡ ra vác thẳng trên vai đem về
Mà lòng sung sướng tràn trề
Biện pháp tu từ ngữ nghĩa trong tiếng Việt bao gồm các phép so sánh, phép ẩn dụ, phép hoán dụ và phép khoa trương. Linh mục Thi sĩ Nguyễn Xuân Văn đã vận dụng rất khéo những biện pháp tu từ ngữ nghĩa này và chúng ta sẽ cùng thưởng thức các thủ pháp của ngài qua tác phẩm Sứ Điệp Tình Thương.
I- SỬ DỤNG PHÉP SO SÁNH:
So sánh là đặt hai hay nhiều sự vật, hiện tượng vào các mối quan hệ nhất định nhằm tìm ra các sự giống nhau và khác biệt giữa chúng. Cơ sở của phép so sánh tu từ học chính là tính khác biệt về chất và về loại giữa các sự vật, hiện tượng.
Như vậy thực chất của phép so sánh tu từ là dùng thuộc tính hay tình trạng của sự vật, hiện tượng này để giải thích cho thuộc tính hay tình trạng của sự vật khác.
Phép so sánh tu từ bao gồm: so sánh có từ so sánh, so sánh ngang bằng, so sánh bậc hơn kém, so sánh bậc cao nhất và so sánh không có từ so sánh.
1- So sánh có từ so sánh:
Khi sử dụng phép so sánh có từ so sánh, các nhà thơ thường sử dụng các từ : như, là, hơn, kém, nhất.
Ví dụ 1:
Họ rằng: “Môn đệ ông Gioan
Tịnh chay kinh kệ tân toan liền ngày
Còn như quý đệ tử đây
Trà trưa, rượu sớm, mặt dày lắm sao?” (1357 - 1360)
Ví dụ 2:
Chúa rằng: “Dầu tự chứng minh
Chứng Ta vẫn chắc như đinh cột nhà. (3701 – 3702)
Ví dụ 3:
Bỗng nghe tiếng Chúa gọi to:
“Hỡi thằng ngu ngốc như bò nghe đây. ” (4389 – 4390)
Ví dụ 4:
Bao lần Ta đã quan hoài
Muốn thu con cái lạc loài của ngươi
Như gà mẹ chạy tới lui
Thu con dưới cánh chăm nuôi không ngừng. (4509 – 4512)
Ví dụ 5:
Cùng nhau một hội một thuyền
Thương nhau như cắt máu truyền cho nhau. (6893 – 6894)
Ví dụ 6:
Oai nghi khiếp quỷ kinh ma
Chúng nghe như sét nổ va ngang đầu
Giựt mình cả bọn ngã nhào
Chẳng còn biết đất trời đâu mà rờ. (7699 – 7702)
Ví dụ 7:
Bỗng nom thấy cuộn dây thừng
Quần ma bỏ lại cạnh rừng đêm qua
Đôi ngươi trực thị Giu- đa
Loé lên như thể bị tà thôi miên. (8121 – 8124)
Ví dụ 8:
Người đâu mặt mũi hoà hiền
Mà trông phong độ như viền hào quang
Vẻ gì chính trực đàng hoàng
Vẻ gì cao quí hiên ngang tuyệt vời. (8225 – 8228)
Ví dụ 9:
Dân càng già miệng già hàm
Lồng lên như ngựa bất kham thét gào. (8327 – 8328)
Ví dụ 10:
Đánh thôi đất thảm trời sầu
Khắp người toé máu nát nhầu thịt da
Ngọn roi như đốt lưng ngà
Gươm đâm xé ruột muối chà tưa gan. (8441 – 8444)
Ví dụ 11:
Quan liền cắt đội lý hình
Pháp trường điệu Chúa đóng đinh mặc lòng
Tuyên xong bản án bất công
Nghe lòng như bị mũi chông đâm vào. (8569 – 8572)
Ví dụ 12:
Kỳ hào tư tế hả hơi
Bá vai thủ hạ vang trời hò reo
Như vừa đánh thắng một keo
Như vừa trút bỏ đá đeo bên mình
Thét lên như bị động kinh:
Mau cho hắn nếm mũi đinh tử thần. (8575 – 8580)
2- So sánh không có từ so sánh:
Cái hay của phép so sánh là so sánh không từ so sánh mà nhà thơ Nguyễn Xuân Văn thường viết trong Sứ điệp tình thường. Sau đây là một số đoạn thơ đơn cử:
Ví dụ 1:
Phúc thay dân chúng Sâm- ri
Càng nghe giảng thuyết càng suy phục nhiều
Không vì thiếu phụ bao nhiêu
Mà vì Lời Chúa cao siêu nhiệm mầu. (1059 – 1062)
Ví dụ 2:
Lời cao dẫn giải thêm cao
Ý sâu nghĩa lý thêm vào càng sâu. (1295 – 1296)
Ví dụ 3:
Tuy hèn vẫn có dưới tay
Một vài tên lính thường ngày ra công
Chỉ đông phải đến bên đông
Chỉ tây cũng phải buộc lòng sang tây
Huống hồ uy đức của Thầy
Tới lui để nhọc gót giày dám đâu. (1827 – 1832)
Ví dụ 4:
Gioan là đèn sáng mặc dầu
Ta còn có chứng sở cầu nơi Cha
Chứng rằng: “Cha đã sai Ta
Chứng bằng lời nói, chứng qua việc làm. ” (2945 – 2946)
Ví dụ 5:
Luật Trời thì các ngươi quăng
Mà khư khư giữ thói xằng người xưa
Dám coi luật Chúa bằng thừa
Vừa không tôn trọng lại vừa bỏ qua. (3009 –3012)
Ví dụ 6:
Chúa rằng: “Xéo khỏi nơi đây
Sa- tan gây rối cho Thầy hay sao?
Lời sao chẳng được lời nào?
Ý người xa ý trời cao nghìn trùng. (3205 – 3208)
Ví dụ 7:
Các con hãy khá nhớ lời
Nếu không sống lại cuộc đời bé thơ
Để mà đón nhận ước mơ
Quyết không đến được bến bờ tiêu diêu. (3347 – 3350)
Ví dụ 8:
Chúa rằng: “Mang lấy tội khiên
Là mang lòi tói mang xiềng mang gông. (3771 – 3772)
Ví dụ 9:
Hỡi ôi! Đức Mẹ Đồng Trinh
Ôm con yêu dấu thống tình khóc than
Mạch sầu núi lở khó hàn
Dòng sầu đá chảy tuyết tan khôn cầm
Ai ngăn nổi giọt lệ thầm
Ai cầm nổi máu tim bầm ứa ra. (9087 – 9092)
Thứ Năm, 16 tháng 9, 2010
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Thứ Năm, 16 tháng 9, 2010
Biện pháp tu từ
HOÁN DỤ: biện pháp dùng tên gọi của đối tượng này thay thế cho tên gọi của đối tượng khác trên cơ sở liên tưởng mối liên hệ lôgic khách quan giữa hai đối tượng. Trong tiếng Việt, dùng tên gọi của cái bộ phận để chỉ cái toàn thể (vd. nhà có ba miệng ăn), dùng tên gọi cái cụ thể để chỉ cái trừu tượng (vd. bàn tay vàng), dùng tên riêng để chỉ tính cách, đặc trưng (vd. Sở Khanh)... là những HD.
BIỆT NGỮ: tập hợp những yếu tố ngôn ngữ riêng, mang tính đặc thù của một nhóm người trong cộng đồng ngôn ngữ. Nhờ BN, nhóm người này có thể phân biệt được với các nhóm khác trong cùng cộng đồng ngôn ngữ đó. Về cấu trúc, BN là một thứ ngôn ngữ phát sinh từ ngôn ngữ tự nhiên, không hoàn chỉnh và không có tính hệ thống cao. Thông thường, BN không khác ngôn ngữ tự nhiên về ngữ âm và ngữ pháp, chỉ khác chủ yếu về một số đơn vị từ vựng.
ẨN DỤ:
1. (văn, ngôn ngữ), biện pháp dùng tên gọi của đối tượng này làm tên gọi của đối tượng khác dựa trên sự liên tưởng về mối tương đồng (có tính chất hiện thực hoặc được tưởng tượng ra) giữa hai đối tượng về mặt nào đó (như màu sắc, tính chất, trạng thái, vv.). Dựa vào chức năng, có thể chia ẩn dụ thành ba loại: 1) ÂD định danh cung cấp những tên gọi mới bằng cách dùng vốn từ cũ. Vd. đầu làng, chân trời, tay ghế, mạng lưới giao thông, làn sóng đấu tranh, vv. 2) ÂD nhận thức, là nguồn tạo nên hiện tượng đa nghĩa. Vd. tâm hồn giá lạnh, tuổi xuân mơn mởn, cuộc sống lênh đênh, vv. Hai loại ÂD này đều ít có giá trị tu từ. 3) ÂD hình tượng hoặc ÂD tu từ là phương tiện diễn đạt có giá trị hình tượng, có sức mạnh biểu cảm. ÂD tu từ được dùng trong văn chính luận cũng như trong thơ ca đặc biệt là thơ trữ tình. Vd. "Hoa" mang ý nghĩa ÂD, chỉ người phụ nữ có nhan sắc, trong câu: "Giá đành trong nguyệt trên mây, Hoa sao hoa khéo đoạ đầy bấy hoa" (Truyện Kiều).
2. (mĩ thuật), ÂD là bố cục tạo hình xây dựng những hình ảnh cụ thể nhưng gợi liên tưởng đến những ý niệm trừu tượng. Bức tranh "Công lí và sự báo phục truy nã tội phạm" của Pruđông (P. P. Proudhon) là bức tranh ÂD. Tranh Tết Việt Nam như tranh "Gà", "Lợn", gợi liên tưởng đến cảnh con cháu đầy đàn, cảnh làm ăn sung túc ấm no; tranh "Tùng", "Cúc", "Trúc", "Mai" gợi liên tưởng đến sự tuần hoàn của trời đất, đến khí chất thanh cao của hiền nhân quân tử.
ĐIỆP TỪ NGỮ:
biện pháp lặp lại một số từ, cụm từ hoặc một cấu trúc ngữ pháp để nhấn mạnh nội dung làm tăng giá trị biểu cảm.
– Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công.
(Hồ Chí Minh)
– Sống dại sinh chi đứng chật đời
Sống xem Âu Mĩ hổ chăng ai ?
Sống làm nô lệ cho người khiến.
Sống chịu ngu si để bạn cười !
Sống tưởng công danh không tưởng nước,
Sống lo phú quý chẳng lo đời,
Sống mà như thế đừng nên sống,
Sống dại sinh chi đứng chật đời.
BIỆN PHÁP TU TỪ: cách sử dụng các phương tiện ngôn ngữ, nhằm đạt tới hiệu quả diễn đạt hay, đẹp, biểu cảm, hấp dẫn. Tuỳ theo các phương tiện ngôn ngữ được kết hợp mà BPTT được chia ra: BPTT ngữ âm, BPTT từ vựng - ngữ nghĩa, BPTT cú pháp, BPTT văn bản. Vd. điệp âm, điệp vần, điệp thanh, hài âm... là những BPTT ngữ âm; tương phản, so sánh, ẩn dụ, nói lái, phản ngữ... là những BPTT từ vựng ngữ nghĩa; sóng đôi, câu hỏi tu từ... là những BPTT cú pháp; hài hoà tương phản, quy định về đoạn trong văn bản là những BPTT văn bản.
PHÉP HOÁN DỤ:
Hoán dụ là cách tạo tên gọi mới cho đối tượng dựa trên mối quan hệ giữa bộ phận và toàn thể nhằm diễn tả sinh động nội dung thông báo mà người viết muốn đề cập. Nguyên tắc của hoán dụ là lâm thời chuyển đổi tên gọi, trong đó “sự vật được nói tới” phải không xuất hiện trên văn bản. Tác giả Sứ Điệp Tình Thường cũng đã vận dụng biện pháp tu từ này một cách nhuần nhuyễn.
Ví dụ 1:
1* Dọc đường dư luận tỉ tê
Rằng: “ Gioan đã bị “Râu dê” cầm tù. ” (1067 – 1068)
2* Gioan từng kết án hôn quân
Cướp con đoạt vợ loạn luân vô nghì. (1981 – 1982)
3* Nhân ngày Khánh đản dịp may
Hôn quân mở tiệc vui say đình thần. (1987 – 1988)
4* Lạ thay! Giữa chốn triều đình
Hôn quân mặt sắt quên mình ngôi cao. (1993 – 1994
Tác giả sử dụng từ “Râu dê” và “hôn quân” ở đây là để nói về Vua Hêrôđê đã cướp vợ của anh trai mình.
Ví dụ 2:
Côn quang được lệnh bao vây
Ra đi, đi suốt một ngày về không
Đưa nhau trình diện hội đồng
Quan thầy hỏi chúng: “Sổ lồng rồi sao?”
Thưa rằng: “Kim cổ đời nào
Chưa ai triết lý thâm cao bằng Người. ”
Dứt lời bị mằng tơi bời:
“Lọ nồi mà cũng bị nhồi nữa sao?” (3611 – 3618)
Tác giả dùng từ “Lọ nồi” chính là sử dụng thủ pháp hoán dụ nói đến mấy tên côn quang.
Ví dụ 3:
Dù Ta tự chứng một mình
Chứng ta có mối đồng tình của Cha
Chính Ngài là Đấng sai Ta
Họ thưa: “Dám hỏi Cụ nhà ở đâu?” (3713 – 3716)
Từ “Cụ nhà” mà tác giả sử dụng là nhằm nói đến Thiên Chúa Cha.
Ví dụ 4:
1* Họ rằng: “Lạc đạo Ông ơi
Gọi Ông quỉ ám đúng lời lẽ chăng?” (3821 – 3822)
2* Ông bị quỷ ám chưa tha
Mọi người đều chết, chết già chết non (3833 – 3834)
Trong các đoạn thơ trên, từ “Ông quỷ ám” đều nhằm nói về Chúa Giêsu.
Ví dụ 5:
Biệt phái đứng thẳng hiên ngang
Lên cung sửa giọng âm vang rền rền:
“Lời tôi khẩn nguyện trước tiên
Là lời cảm tạ Chúa trên cõi trời
Cho tôi không giống người đời
Ngoại tình trộm cắp chơi bời đắm say
Không như “quân hút máu” nầy
Mỗi tuần tôi đã giữ chay hai lần. (4913 – 4920)
Từ “quân hút máu” nhằm chỉ người thu thuế.
Ví dụ 6:
Bấy giờ dù giữa mùa cày
Hai chàng thì sẽ gọi ngay một chàng
Hai cô xay bột bên đàng
Áo xanh để lại, áo vàng đem đi. (6479 – 6482)
Từ “áo xanh” và từ “áo vàng” trong câu thơ trên chính là sự hoán dụ thay cho hai cô gái.
Ví dụ 7:
Trời mai ngày áp đẹp trời
Phê- rô được lệnh cùng người Chúa yêu. (6671 – 6672)
Từ “người Chúa yêu” là nói đến thánh Gioan tông đồ.
Ví dụ 8:
Chúng con sạch cốt sạch bì
Mặc dù có kẻ gan lì đá chai. (6783 – 6784)
Từ “kẻ gan lì đá chai” nhằm ám chỉ ông Giu- đa bán Chúa.
Ví dụ 9:
Có quân hộ tống bạo tàn
Có dân đông đảo nhập đoàn trợ oai
Giữa bầy sói dữ lạc loài
Chúa thành cái đích chúng mài nhọn răng
Trước hàm sư tử hung hăng
Như chiên bị trói chẳng rằng chẳng kêu. (8175 – 8180)
Từ “bầy sói dữ” và “hàm sư tử” là tên mà tác giả dùng để gọi quân hộ tống và bọn người hùa theo kết án Chúa Giêsu.
Từ “chiên bị trói” thì ai cũng hiểu đó là nói về Chúa Giêsu.
Ví dụ 10:
Hỏi chi thì hỏi mặc dầu
Trăm câu chẳng được một câu đáp về
Bực mình đánh tiếng cười chê:
“Trẫm vô duyên gặp Thằng Hề ngu si
Ban cho Hắn chiếc bạch y
Trả về quan trấn làm chi thì làm. ” (8295 – 8300)
Từ “Thằng Hề” là nói về Chúa Giêsu.
Ví dụ 11:
Họ rồng, tộc rắn hai nhà
Bấy lâu có chuyện bất hoà sâu cay
Trời xui đất khiến vụ này
Rắn, rồng từ đó bắt tay làm lành. (8307 – 8310)
Từ “rồng” là tên gọi Vua Hê- rô- đê.
Từ “rắn” là tên gọi quan tổng trấn Phi- la- tô.
IV- SỬ DỤNG PHÉP KHOA TRƯƠNG:
Khoa trương hay phóng đại là biện pháp nói giảm hay nói quá sự thật nhằm diễn tả sự vật hiện tượng dưới cách nhìn hài hước, châm biếm hoặc hy vọng lạc quan. Tuy là một tác phẩm chuyển thể của Thánh Kinh, nhưng thi sĩ đã vẫn sử dụng phép khoa trương rất đặc sắc trong một số trường hợp.
Ví dụ 1:
Ghé tai môn đệ nhỏ to:
Một đồng một cốt Thầy trò nhà bay
Trao ly cụng chén no say
Với quân bóc lột với tay gạt lường. (1347 – 1350)
Khi sử dụng các từ “một đồng một cốt”, tác giả đã phóng đại lên sự chê bai chỉ trích của các thầy thông luật và biệt phái đối với Thầy trò của Chúa Giêsu. Họ xem Chúa Giêsu và các môn đệ chỉ là những kẻ “sáng rượu trưa trà” chỉ biết nhậu nhẹt với phường tội lỗi, còn tất cả những phép lạ Chúa làm chỉ là sự ma mãnh của bọn đồng cốt mà thôi.
Ví dụ 2:
Ông này là bậc tiên tri
Lẽ ra biết ả tiện tỳ là ai. (2091 – 2092)
Tác giả đã dùng từ “ả tiện tỳ” nhằm cho thấy người Biệt Phái hạ thấp giá trị nhân phẩm của người phụ nữ tội lỗi.
Ví dụ 3:
Chúa ngồi bó gối ngoài khoang
Say sưa ôm giấc mơ vàng ngủ yên. (2351 – 2352)
Tác giả đã nói quá về sự mê ngủ của Chúa Giêsu, thuyền chật phải ngồi bó gối thì không thể nào “say sưa ôm giấc mơ vàng ngủ yên”, bởi vì Chúa đâu phải là kẻ ham ngủ một cách vô trách nhiệm trước những lo lắng của các môn đệ, nhưng Chúa muốn thử các môn đệ tin Ngài như thế nào mà thôi.
Ví dụ 4:
Vào hôm ngày Lễ bắt đầu
Xôn xao nổi dậy những câu thăm dò
Bọn người Do Thái nhỏ to:
“Liệu chừng Hắn có dám mò đến chăng?” (3497 – 3500)
Từ “dám mò” nhằm chê bai và hạ thấp giá trị của Chúa Giêsu, bởi vì Chúa vẫn công khai lên đền thờ rao giảng vào mỗi sáng cho đến khi chịu khổ nạn.
Ví dụ 5:
Chúng tao có Đấng quan thầy
Từng được Chúa phán dạy ngay nhãn tiền
Đó là tổ phụ Mai- sen
Ông Giê- su ấy dân đen xứ nào. (3963 – 3966)
Từ “dân đen” cũng nhằm chê bai và hạ thấp giá trị của Chúa Giêsu.
Ví dụ 6:
Ác vàng vừa trốn sau đồi
Trông lên núi Thánh rợp trời đèn hoa. (6691 – 6692)
Từ “Ác vàng” hay “quạ vàng’ (kim ô) sử dụng phép ẩn dụ để diễn tả mặt trời.
Ví dụ 7:
Hằm hằm một bọn trảo nha
Lôi người bị trói đứng ra giữa phòng
Người đâu tiều tuỵ hình dong
Mà trông ánh mắt uy phong khác người
Khuyển ưng chưa kịp rút lui
Một lô ruồi nhặng nối đuôi kéo vào
Trước toà răm rắp cúi chào
Luân phiên tố cáo ồn ào như sôi
Tố gian, tố dối một hồi
Bên mâu bên thuẫn tố bồi lẫn nhau. (7863 – 7872)
Từ “khuyển ưng” ám chỉ bọn thủ hạ của Cai- pha và từ “ruồi nhặng” ám chỉ lũ người làm chứng gian.
Ví dụ 8:
Phê- rô như dại như ngây
Ân sâu nghĩa nặng giờ đây còn gì
Nghẹn ngào bưng mặt chạy đi
Mắt hoen mờ lệ lòng bi thiết buồn
Mạch sầu như nước vỡ nguồn
Chảy mòn hai má chảy luôn trọn đời. (7979 – 7984)
Qua câu “chảy mòn hai má chảy luôn trọn đời”. Tác giả đã sử dụng thủ pháp khoa trương nhằm làm tăng thêm lòng ăn năn chân thành của Thánh Phê- rô trong suốt cả đời ông.
Ví dụ 9:
Lại còn độc địa khôn lường
Lại còn bêu rếu phi thường chua cay
Rằng: “Nghe lỗ miệng Tên nầy
Tự xưng Thiên Tử cũng tay ngạo đời. (8467 – 8470)
Từ “lỗ miệng” có tính chê bai khinh miệt Chúa Giêsu.
Ví dụ 10:
Kỳ hào ngậm miệng đã lâu
Tiết thêm nọc độc bắt đầu tuôn ra:
“Ngoại trừ hoàng đế Xê- da
Chúng tôi đâu có mồ ma vua nào?” (8561 – 8564)
Từ “tiết thêm nọc độc” nhằm làm tăng thêm tính nham hiểm và độc ác của bọn kỳ hào.
Từ “mồ ma” vừa nói lên sự dua nịnh vừa nói lên sự xảo ngôn của bọn kỳ hào không chấp nhận Chúa Giêsu là Vua mà chỉ thần phục Hoàng đế Xê- da của đế quốc Rôma.
Ví dụ 11:
Lý hình phóng tới vội vàng
Hung hăng như rắn hổ mang vờn mồi
Miệng phun bọt dãi tanh hôi
Bày trò lăng nhục ôi thôi đủ trò. (8585 – 8588)
Từ “rắn hổ mang”, “miệng phun bọt dãi tanh hôi” cũng đều làm tăng thêm tính nham hiểm và độc ác của bọn lý hình.
Trong giao tiếp nghệ thuật, việc phát huy hiệu lực của biện pháp tu từ ngữ nghĩa tuỳ thuộc vào vốn ngôn ngữ và quá trình rèn luyện tư duy của mỗi người. Nhà thơ Nguyễn Xuân Văn đã vận dụng chúng như là các thủ pháp tạo nên các đặc trưng của Sứ Điệp Tình Thường giúp cho người đọc có một chìa đi vào các lớp nghĩa ở cả bề sâu và cấu trúc của nó.
SỬ DỤNG PHÉP ẨN DỤ:
Trong Sứ Điệp Tình Thường, tác giả cũng thường vận dụng phép so sánh không nói thẳng ra, đó là phép ẩn dụ. Khi đọc câu thơ có phép ẩn dụ, người tiếp cận phải dùng năng lực liên tưởng để qui chiếu giữa các yếu tố hiện diện trong câu thơ với các sự vật, hiện tượng tồn tại ngoài câu thơ. Như vậy thực chất của phép ẩn dụ chính là việc dùng tên gọi này để biểu hiện sự vật khác dựa trên cơ chế tư duy và ngôn ngữ dân tộc.
1- Phép ẩn dụ nhân hoá:
Ẩn dụ nhân hoá là kiểu ẩn dụ được xây dựng trên mối quan hệ giữa người và vật. Đó là phép ẩn dụ được hình thành trên cơ chế chuyển nghĩa giữa trường về con người và trường về sự vật mà tác giả đã vận dụng trong tác phẩm của mình.
Ví dụ 1:
Sứ Trời dẫn giải gần xa
“Trái Thần bởi phép Thánh Thần tượng sinh
Hoa trinh giữ vẹn hương trinh
Vườn xuân nắng giãi thêm hình sắc xuân. (147 – 150)
Để diễn đạt mầu nhiệm nhập thể, tác giả đã sử dụng từ “Trái Thần” để nói về Chúa Giêsu và từ “Vườn xuân” là nói về Đức Mẹ.
Ví dụ 2:
Dưới chân con bóng đã tròn
Chúa dừng nghỉ mệt tránh đòn nắng trưa. (957 – 958)
Thi sĩ đã sử dụng từ “con bóng” để nhân cách hoá “ông mặt trời” đang “đánh đòn nắng trưa”.
Ví dụ 3:
Qua cơn sóng nổi gió trôi
Thầy trò im lặng cùng ngồi nhìn xa
Dần dần thấy đất Giét- xa
Con thuyền mệt mỏi vượt qua biển hồ. (2367 – 2370)
Rõ ràng tác giả dùng từ “con thuyền mệt mỏi” để diễn tả trạng thái của các môn đệ vừa thoát qua cơn bão táp trong đêm.
Ví dụ 4:
Được Lời không nhận lấy Lời
Không tin nơi Đấng mà Người đã sai. (2951 – 2952)
Từ “Lời” ở đây không thể hiểu là lời nói mà chắc chắn là nói về “Đấng” mà Chúa Cha đã sai đến thế gian, đó chính là Chúa Giêsu, Ngài là Ngôi Lời của Thiên Chúa.
Ví dụ 5:
Chúa xuân ví đến kịp thời
Hoa xuân đâu bị dập vùi cho cam. (5331 – 5332)
Từ “Chúa xuân” là nói đến Chúa Giêsu, còn từ “Hoa xuân” là ám chỉ La- da- rô.
Ví dụ 6:
Ai trao câu đố vào tai?
Cho người khó đứng cho ai khôn ngồi
Kể từ buổi ấy qua rồi
Biết vàng cao giá, lửa thôi thử vàng. (5995 – 5998)
Từ “vàng” là nói về Chúa Giêsu, từ “lửa” ám chỉ biệt phái.
Ví dụ 7:
Thiên thần chẳng rõ chẳng hay
Con Người cũng chẳng được bày tỏ ra
Chỉ riêng mình Đức Chúa Cha
Đo lường tuổi tác trời già mà thôi. (6457 – 6460)
Có lẽ chỉ có các loại sinh vật theo cái qui luật sinh bệnh lão tử thì mới già, chứ trời đất thì không theo qui luật này nên không ai gọi “trời già”. Tác giả đã nhân cách hoá tuổi tác của ông trời nhằm mục đích nói đến ngày cánh chung mà thôi.
Ví dụ 8:
Dù Thầy có phải ra đi
Là đi sắp chỗ thay vì các con
Bao giờ hoa nở trăng tròn
Sẽ quay trở lại nước non trùng phùng. (6967 – 6970)
Từ “trùng phùng” diễn đạt sự gặp gỡ của con người, cho nên trong câu thơ này từ “nước non” phải hiểu là đại biểu cho Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài.
2- Phép ẩn dụ tượng trưng:
Tác giả Sứ Điệp Tình Thường cũng thường sử dụng ẩn dụ tương trưng là loại ẩn dụ được dùng đi dùng lại nhiều lần trở thành các hình ảnh có giá trị tượng trưng.
Ví dụ 1:
Chân trời mộng ước lùi xa
Nghĩ thôi mai cỗi trúc già thì thôi
Chim bay về núi tối rồi
Ngày xanh mấy thuở vãn hồi cho đâu? (45 – 48)
Trong đoạn thơ trên, rõ ràng các từ “mai cỗi”, “trúc già”, phải hiểu đó là nói về ông bà Giacaria đã già yếu và từ “chim bay” trong câu “ về núi tối rồi” là nói về tuổi già của ông bà đã không còn khả năng sinh con.
Ví dụ 2:
Vợ chồng sum họp đề huề
Nước non như cũ, trăng thề còn nguyên. (85 – 86)
Từ “nước non” và từ “trăng thề” thường biểu hiện cho tình yêu nam nữ, tình yêu vợ chồng.
Ví dụ 3:
Thầy trò vui chuyện đổi thay
Chúa rằng: “ Thiên hạ cho Thầy là ai?”
Thưa rằng: “Kẻ trúc, người mai
Nào Gioan Tẩy giả, nào Ngài Ê- li. (3167 – 3168)
Trong mạch thơ này thì từ “trúc” và từ “mai” là nhằm nói đến các tiên tri và các ngôn sứ trong Cựu ước.
Ví dụ 4:
Ngày kia vào đến một làng
Dân Sâm- ri hận chẳng màng đón đưa
Giắc, Gioan nổi sấm sét thưa:
“Lửa trời khiến đốt cho chừa, nên chăng?” (3487 – 3490)
Từ “nổi sấm sét” trong câu thơ này tượng trưng cho sự tức giận.
Ví dụ 5:
Mặt rồng lộ vẻ vui tươi
Hân hoan chào khách nói lời tri ân. (6149 – 6150)
Từ “mặt rồng” là từ ẩn dụ nhằm nói đến nhà vua.
3- Phép ẩn dụ ngụ ngôn:
Ẩn dụ ngụ ngôn là nói đến bài học đạo đức, nói tới triết lý nhân sinh. Ẩn dụ ngụ ngôn tác động đến người ta một cách thấm thía vì đó là sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố hiện thực của ngôn ngữ và chất suy tưởng. Có thể nói đây là hình thức phát triển của ẩn dụ nhân hoá.
Mặc dù Thánh Kinh Tân Ước đầy ắp những dụ ngôn bằng văn xuôi của Chúa Giêsu, nhưng Linh mục Nguyễn Xuân Văn đã chuyển những dụ ngôn ấy qua thể qua thể lục bát một cách khéo léo mà không làm mất đi nội dung giáo lý và đạo đức, về cách ứng xử giữa con người với con người.
Ví dụ 1: Dụ ngôn “Cỏ lùng”:
Nước Trời giống cảnh thôn quê
Sang thu chủ ruộng lo bề tăng gia
Gieo xong giống tốt về nhà
Kẻ thù lén đến rắc pha cỏ lùng
Lúa lên thành gié thành bông
Cỏ lùng xuất hiện lộn sòng đứng chen
Tình hình đám ruộng rối ren
Gia nhân đem chuyện trình lên chủ nhà:
“Ông gieo giống tốt kia mà,
Cỏ đâu đến mọc ai pha trộn vào?”
Chủ rằng: “Chắc kẻ thù nào,
Muốn gây thêm chuyện hỗn hào với ta”.
Có người xin dọn ruộng nhà
Chủ rằng: “Đừng vội! Chẳng thà để yên.
Lúa và cỏ sẽ lớn lên
Tạm thời để nó chẳng nên nhổ lầm
Đến mùa ta sẽ tới thăm
Bảo đoàn thợ gặt lưu tâm thi hành
Cỏ thì bó lại từng khoanh
Quăng vào lửa đốt cho thành bụi tro
Lúa thu vào lẫm vào kho,
Có chi mà phải âu lo nhọc mình”. (2261 – 2282)
Ví dụ 2: Dụ ngôn “Con chiên lạc”:
Có người chăm sóc chiên non
Trăm con thấy thiếu một con trong ràn
Cả bầy để lại rừng hoang
Thương con chiên lạc sẵn sàng xông pha
Mấy đèo mấy suối cũng qua
Không đành bỏ nó đắm sa lạc loài
Thấy chiên mắc giữa bụi gai
Gỡ ra vác thẳng trên vai đem về
Mà lòng sung sướng tràn trề
Biện pháp tu từ ngữ nghĩa trong tiếng Việt bao gồm các phép so sánh, phép ẩn dụ, phép hoán dụ và phép khoa trương. Linh mục Thi sĩ Nguyễn Xuân Văn đã vận dụng rất khéo những biện pháp tu từ ngữ nghĩa này và chúng ta sẽ cùng thưởng thức các thủ pháp của ngài qua tác phẩm Sứ Điệp Tình Thương.
I- SỬ DỤNG PHÉP SO SÁNH:
So sánh là đặt hai hay nhiều sự vật, hiện tượng vào các mối quan hệ nhất định nhằm tìm ra các sự giống nhau và khác biệt giữa chúng. Cơ sở của phép so sánh tu từ học chính là tính khác biệt về chất và về loại giữa các sự vật, hiện tượng.
Như vậy thực chất của phép so sánh tu từ là dùng thuộc tính hay tình trạng của sự vật, hiện tượng này để giải thích cho thuộc tính hay tình trạng của sự vật khác.
Phép so sánh tu từ bao gồm: so sánh có từ so sánh, so sánh ngang bằng, so sánh bậc hơn kém, so sánh bậc cao nhất và so sánh không có từ so sánh.
1- So sánh có từ so sánh:
Khi sử dụng phép so sánh có từ so sánh, các nhà thơ thường sử dụng các từ : như, là, hơn, kém, nhất.
Ví dụ 1:
Họ rằng: “Môn đệ ông Gioan
Tịnh chay kinh kệ tân toan liền ngày
Còn như quý đệ tử đây
Trà trưa, rượu sớm, mặt dày lắm sao?” (1357 - 1360)
Ví dụ 2:
Chúa rằng: “Dầu tự chứng minh
Chứng Ta vẫn chắc như đinh cột nhà. (3701 – 3702)
Ví dụ 3:
Bỗng nghe tiếng Chúa gọi to:
“Hỡi thằng ngu ngốc như bò nghe đây. ” (4389 – 4390)
Ví dụ 4:
Bao lần Ta đã quan hoài
Muốn thu con cái lạc loài của ngươi
Như gà mẹ chạy tới lui
Thu con dưới cánh chăm nuôi không ngừng. (4509 – 4512)
Ví dụ 5:
Cùng nhau một hội một thuyền
Thương nhau như cắt máu truyền cho nhau. (6893 – 6894)
Ví dụ 6:
Oai nghi khiếp quỷ kinh ma
Chúng nghe như sét nổ va ngang đầu
Giựt mình cả bọn ngã nhào
Chẳng còn biết đất trời đâu mà rờ. (7699 – 7702)
Ví dụ 7:
Bỗng nom thấy cuộn dây thừng
Quần ma bỏ lại cạnh rừng đêm qua
Đôi ngươi trực thị Giu- đa
Loé lên như thể bị tà thôi miên. (8121 – 8124)
Ví dụ 8:
Người đâu mặt mũi hoà hiền
Mà trông phong độ như viền hào quang
Vẻ gì chính trực đàng hoàng
Vẻ gì cao quí hiên ngang tuyệt vời. (8225 – 8228)
Ví dụ 9:
Dân càng già miệng già hàm
Lồng lên như ngựa bất kham thét gào. (8327 – 8328)
Ví dụ 10:
Đánh thôi đất thảm trời sầu
Khắp người toé máu nát nhầu thịt da
Ngọn roi như đốt lưng ngà
Gươm đâm xé ruột muối chà tưa gan. (8441 – 8444)
Ví dụ 11:
Quan liền cắt đội lý hình
Pháp trường điệu Chúa đóng đinh mặc lòng
Tuyên xong bản án bất công
Nghe lòng như bị mũi chông đâm vào. (8569 – 8572)
Ví dụ 12:
Kỳ hào tư tế hả hơi
Bá vai thủ hạ vang trời hò reo
Như vừa đánh thắng một keo
Như vừa trút bỏ đá đeo bên mình
Thét lên như bị động kinh:
Mau cho hắn nếm mũi đinh tử thần. (8575 – 8580)
2- So sánh không có từ so sánh:
Cái hay của phép so sánh là so sánh không từ so sánh mà nhà thơ Nguyễn Xuân Văn thường viết trong Sứ điệp tình thường. Sau đây là một số đoạn thơ đơn cử:
Ví dụ 1:
Phúc thay dân chúng Sâm- ri
Càng nghe giảng thuyết càng suy phục nhiều
Không vì thiếu phụ bao nhiêu
Mà vì Lời Chúa cao siêu nhiệm mầu. (1059 – 1062)
Ví dụ 2:
Lời cao dẫn giải thêm cao
Ý sâu nghĩa lý thêm vào càng sâu. (1295 – 1296)
Ví dụ 3:
Tuy hèn vẫn có dưới tay
Một vài tên lính thường ngày ra công
Chỉ đông phải đến bên đông
Chỉ tây cũng phải buộc lòng sang tây
Huống hồ uy đức của Thầy
Tới lui để nhọc gót giày dám đâu. (1827 – 1832)
Ví dụ 4:
Gioan là đèn sáng mặc dầu
Ta còn có chứng sở cầu nơi Cha
Chứng rằng: “Cha đã sai Ta
Chứng bằng lời nói, chứng qua việc làm. ” (2945 – 2946)
Ví dụ 5:
Luật Trời thì các ngươi quăng
Mà khư khư giữ thói xằng người xưa
Dám coi luật Chúa bằng thừa
Vừa không tôn trọng lại vừa bỏ qua. (3009 –3012)
Ví dụ 6:
Chúa rằng: “Xéo khỏi nơi đây
Sa- tan gây rối cho Thầy hay sao?
Lời sao chẳng được lời nào?
Ý người xa ý trời cao nghìn trùng. (3205 – 3208)
Ví dụ 7:
Các con hãy khá nhớ lời
Nếu không sống lại cuộc đời bé thơ
Để mà đón nhận ước mơ
Quyết không đến được bến bờ tiêu diêu. (3347 – 3350)
Ví dụ 8:
Chúa rằng: “Mang lấy tội khiên
Là mang lòi tói mang xiềng mang gông. (3771 – 3772)
Ví dụ 9:
Hỡi ôi! Đức Mẹ Đồng Trinh
Ôm con yêu dấu thống tình khóc than
Mạch sầu núi lở khó hàn
Dòng sầu đá chảy tuyết tan khôn cầm
Ai ngăn nổi giọt lệ thầm
Ai cầm nổi máu tim bầm ứa ra. (9087 – 9092)
BIỆT NGỮ: tập hợp những yếu tố ngôn ngữ riêng, mang tính đặc thù của một nhóm người trong cộng đồng ngôn ngữ. Nhờ BN, nhóm người này có thể phân biệt được với các nhóm khác trong cùng cộng đồng ngôn ngữ đó. Về cấu trúc, BN là một thứ ngôn ngữ phát sinh từ ngôn ngữ tự nhiên, không hoàn chỉnh và không có tính hệ thống cao. Thông thường, BN không khác ngôn ngữ tự nhiên về ngữ âm và ngữ pháp, chỉ khác chủ yếu về một số đơn vị từ vựng.
ẨN DỤ:
1. (văn, ngôn ngữ), biện pháp dùng tên gọi của đối tượng này làm tên gọi của đối tượng khác dựa trên sự liên tưởng về mối tương đồng (có tính chất hiện thực hoặc được tưởng tượng ra) giữa hai đối tượng về mặt nào đó (như màu sắc, tính chất, trạng thái, vv.). Dựa vào chức năng, có thể chia ẩn dụ thành ba loại: 1) ÂD định danh cung cấp những tên gọi mới bằng cách dùng vốn từ cũ. Vd. đầu làng, chân trời, tay ghế, mạng lưới giao thông, làn sóng đấu tranh, vv. 2) ÂD nhận thức, là nguồn tạo nên hiện tượng đa nghĩa. Vd. tâm hồn giá lạnh, tuổi xuân mơn mởn, cuộc sống lênh đênh, vv. Hai loại ÂD này đều ít có giá trị tu từ. 3) ÂD hình tượng hoặc ÂD tu từ là phương tiện diễn đạt có giá trị hình tượng, có sức mạnh biểu cảm. ÂD tu từ được dùng trong văn chính luận cũng như trong thơ ca đặc biệt là thơ trữ tình. Vd. "Hoa" mang ý nghĩa ÂD, chỉ người phụ nữ có nhan sắc, trong câu: "Giá đành trong nguyệt trên mây, Hoa sao hoa khéo đoạ đầy bấy hoa" (Truyện Kiều).
2. (mĩ thuật), ÂD là bố cục tạo hình xây dựng những hình ảnh cụ thể nhưng gợi liên tưởng đến những ý niệm trừu tượng. Bức tranh "Công lí và sự báo phục truy nã tội phạm" của Pruđông (P. P. Proudhon) là bức tranh ÂD. Tranh Tết Việt Nam như tranh "Gà", "Lợn", gợi liên tưởng đến cảnh con cháu đầy đàn, cảnh làm ăn sung túc ấm no; tranh "Tùng", "Cúc", "Trúc", "Mai" gợi liên tưởng đến sự tuần hoàn của trời đất, đến khí chất thanh cao của hiền nhân quân tử.
ĐIỆP TỪ NGỮ:
biện pháp lặp lại một số từ, cụm từ hoặc một cấu trúc ngữ pháp để nhấn mạnh nội dung làm tăng giá trị biểu cảm.
– Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công.
(Hồ Chí Minh)
– Sống dại sinh chi đứng chật đời
Sống xem Âu Mĩ hổ chăng ai ?
Sống làm nô lệ cho người khiến.
Sống chịu ngu si để bạn cười !
Sống tưởng công danh không tưởng nước,
Sống lo phú quý chẳng lo đời,
Sống mà như thế đừng nên sống,
Sống dại sinh chi đứng chật đời.
BIỆN PHÁP TU TỪ: cách sử dụng các phương tiện ngôn ngữ, nhằm đạt tới hiệu quả diễn đạt hay, đẹp, biểu cảm, hấp dẫn. Tuỳ theo các phương tiện ngôn ngữ được kết hợp mà BPTT được chia ra: BPTT ngữ âm, BPTT từ vựng - ngữ nghĩa, BPTT cú pháp, BPTT văn bản. Vd. điệp âm, điệp vần, điệp thanh, hài âm... là những BPTT ngữ âm; tương phản, so sánh, ẩn dụ, nói lái, phản ngữ... là những BPTT từ vựng ngữ nghĩa; sóng đôi, câu hỏi tu từ... là những BPTT cú pháp; hài hoà tương phản, quy định về đoạn trong văn bản là những BPTT văn bản.
PHÉP HOÁN DỤ:
Hoán dụ là cách tạo tên gọi mới cho đối tượng dựa trên mối quan hệ giữa bộ phận và toàn thể nhằm diễn tả sinh động nội dung thông báo mà người viết muốn đề cập. Nguyên tắc của hoán dụ là lâm thời chuyển đổi tên gọi, trong đó “sự vật được nói tới” phải không xuất hiện trên văn bản. Tác giả Sứ Điệp Tình Thường cũng đã vận dụng biện pháp tu từ này một cách nhuần nhuyễn.
Ví dụ 1:
1* Dọc đường dư luận tỉ tê
Rằng: “ Gioan đã bị “Râu dê” cầm tù. ” (1067 – 1068)
2* Gioan từng kết án hôn quân
Cướp con đoạt vợ loạn luân vô nghì. (1981 – 1982)
3* Nhân ngày Khánh đản dịp may
Hôn quân mở tiệc vui say đình thần. (1987 – 1988)
4* Lạ thay! Giữa chốn triều đình
Hôn quân mặt sắt quên mình ngôi cao. (1993 – 1994
Tác giả sử dụng từ “Râu dê” và “hôn quân” ở đây là để nói về Vua Hêrôđê đã cướp vợ của anh trai mình.
Ví dụ 2:
Côn quang được lệnh bao vây
Ra đi, đi suốt một ngày về không
Đưa nhau trình diện hội đồng
Quan thầy hỏi chúng: “Sổ lồng rồi sao?”
Thưa rằng: “Kim cổ đời nào
Chưa ai triết lý thâm cao bằng Người. ”
Dứt lời bị mằng tơi bời:
“Lọ nồi mà cũng bị nhồi nữa sao?” (3611 – 3618)
Tác giả dùng từ “Lọ nồi” chính là sử dụng thủ pháp hoán dụ nói đến mấy tên côn quang.
Ví dụ 3:
Dù Ta tự chứng một mình
Chứng ta có mối đồng tình của Cha
Chính Ngài là Đấng sai Ta
Họ thưa: “Dám hỏi Cụ nhà ở đâu?” (3713 – 3716)
Từ “Cụ nhà” mà tác giả sử dụng là nhằm nói đến Thiên Chúa Cha.
Ví dụ 4:
1* Họ rằng: “Lạc đạo Ông ơi
Gọi Ông quỉ ám đúng lời lẽ chăng?” (3821 – 3822)
2* Ông bị quỷ ám chưa tha
Mọi người đều chết, chết già chết non (3833 – 3834)
Trong các đoạn thơ trên, từ “Ông quỷ ám” đều nhằm nói về Chúa Giêsu.
Ví dụ 5:
Biệt phái đứng thẳng hiên ngang
Lên cung sửa giọng âm vang rền rền:
“Lời tôi khẩn nguyện trước tiên
Là lời cảm tạ Chúa trên cõi trời
Cho tôi không giống người đời
Ngoại tình trộm cắp chơi bời đắm say
Không như “quân hút máu” nầy
Mỗi tuần tôi đã giữ chay hai lần. (4913 – 4920)
Từ “quân hút máu” nhằm chỉ người thu thuế.
Ví dụ 6:
Bấy giờ dù giữa mùa cày
Hai chàng thì sẽ gọi ngay một chàng
Hai cô xay bột bên đàng
Áo xanh để lại, áo vàng đem đi. (6479 – 6482)
Từ “áo xanh” và từ “áo vàng” trong câu thơ trên chính là sự hoán dụ thay cho hai cô gái.
Ví dụ 7:
Trời mai ngày áp đẹp trời
Phê- rô được lệnh cùng người Chúa yêu. (6671 – 6672)
Từ “người Chúa yêu” là nói đến thánh Gioan tông đồ.
Ví dụ 8:
Chúng con sạch cốt sạch bì
Mặc dù có kẻ gan lì đá chai. (6783 – 6784)
Từ “kẻ gan lì đá chai” nhằm ám chỉ ông Giu- đa bán Chúa.
Ví dụ 9:
Có quân hộ tống bạo tàn
Có dân đông đảo nhập đoàn trợ oai
Giữa bầy sói dữ lạc loài
Chúa thành cái đích chúng mài nhọn răng
Trước hàm sư tử hung hăng
Như chiên bị trói chẳng rằng chẳng kêu. (8175 – 8180)
Từ “bầy sói dữ” và “hàm sư tử” là tên mà tác giả dùng để gọi quân hộ tống và bọn người hùa theo kết án Chúa Giêsu.
Từ “chiên bị trói” thì ai cũng hiểu đó là nói về Chúa Giêsu.
Ví dụ 10:
Hỏi chi thì hỏi mặc dầu
Trăm câu chẳng được một câu đáp về
Bực mình đánh tiếng cười chê:
“Trẫm vô duyên gặp Thằng Hề ngu si
Ban cho Hắn chiếc bạch y
Trả về quan trấn làm chi thì làm. ” (8295 – 8300)
Từ “Thằng Hề” là nói về Chúa Giêsu.
Ví dụ 11:
Họ rồng, tộc rắn hai nhà
Bấy lâu có chuyện bất hoà sâu cay
Trời xui đất khiến vụ này
Rắn, rồng từ đó bắt tay làm lành. (8307 – 8310)
Từ “rồng” là tên gọi Vua Hê- rô- đê.
Từ “rắn” là tên gọi quan tổng trấn Phi- la- tô.
IV- SỬ DỤNG PHÉP KHOA TRƯƠNG:
Khoa trương hay phóng đại là biện pháp nói giảm hay nói quá sự thật nhằm diễn tả sự vật hiện tượng dưới cách nhìn hài hước, châm biếm hoặc hy vọng lạc quan. Tuy là một tác phẩm chuyển thể của Thánh Kinh, nhưng thi sĩ đã vẫn sử dụng phép khoa trương rất đặc sắc trong một số trường hợp.
Ví dụ 1:
Ghé tai môn đệ nhỏ to:
Một đồng một cốt Thầy trò nhà bay
Trao ly cụng chén no say
Với quân bóc lột với tay gạt lường. (1347 – 1350)
Khi sử dụng các từ “một đồng một cốt”, tác giả đã phóng đại lên sự chê bai chỉ trích của các thầy thông luật và biệt phái đối với Thầy trò của Chúa Giêsu. Họ xem Chúa Giêsu và các môn đệ chỉ là những kẻ “sáng rượu trưa trà” chỉ biết nhậu nhẹt với phường tội lỗi, còn tất cả những phép lạ Chúa làm chỉ là sự ma mãnh của bọn đồng cốt mà thôi.
Ví dụ 2:
Ông này là bậc tiên tri
Lẽ ra biết ả tiện tỳ là ai. (2091 – 2092)
Tác giả đã dùng từ “ả tiện tỳ” nhằm cho thấy người Biệt Phái hạ thấp giá trị nhân phẩm của người phụ nữ tội lỗi.
Ví dụ 3:
Chúa ngồi bó gối ngoài khoang
Say sưa ôm giấc mơ vàng ngủ yên. (2351 – 2352)
Tác giả đã nói quá về sự mê ngủ của Chúa Giêsu, thuyền chật phải ngồi bó gối thì không thể nào “say sưa ôm giấc mơ vàng ngủ yên”, bởi vì Chúa đâu phải là kẻ ham ngủ một cách vô trách nhiệm trước những lo lắng của các môn đệ, nhưng Chúa muốn thử các môn đệ tin Ngài như thế nào mà thôi.
Ví dụ 4:
Vào hôm ngày Lễ bắt đầu
Xôn xao nổi dậy những câu thăm dò
Bọn người Do Thái nhỏ to:
“Liệu chừng Hắn có dám mò đến chăng?” (3497 – 3500)
Từ “dám mò” nhằm chê bai và hạ thấp giá trị của Chúa Giêsu, bởi vì Chúa vẫn công khai lên đền thờ rao giảng vào mỗi sáng cho đến khi chịu khổ nạn.
Ví dụ 5:
Chúng tao có Đấng quan thầy
Từng được Chúa phán dạy ngay nhãn tiền
Đó là tổ phụ Mai- sen
Ông Giê- su ấy dân đen xứ nào. (3963 – 3966)
Từ “dân đen” cũng nhằm chê bai và hạ thấp giá trị của Chúa Giêsu.
Ví dụ 6:
Ác vàng vừa trốn sau đồi
Trông lên núi Thánh rợp trời đèn hoa. (6691 – 6692)
Từ “Ác vàng” hay “quạ vàng’ (kim ô) sử dụng phép ẩn dụ để diễn tả mặt trời.
Ví dụ 7:
Hằm hằm một bọn trảo nha
Lôi người bị trói đứng ra giữa phòng
Người đâu tiều tuỵ hình dong
Mà trông ánh mắt uy phong khác người
Khuyển ưng chưa kịp rút lui
Một lô ruồi nhặng nối đuôi kéo vào
Trước toà răm rắp cúi chào
Luân phiên tố cáo ồn ào như sôi
Tố gian, tố dối một hồi
Bên mâu bên thuẫn tố bồi lẫn nhau. (7863 – 7872)
Từ “khuyển ưng” ám chỉ bọn thủ hạ của Cai- pha và từ “ruồi nhặng” ám chỉ lũ người làm chứng gian.
Ví dụ 8:
Phê- rô như dại như ngây
Ân sâu nghĩa nặng giờ đây còn gì
Nghẹn ngào bưng mặt chạy đi
Mắt hoen mờ lệ lòng bi thiết buồn
Mạch sầu như nước vỡ nguồn
Chảy mòn hai má chảy luôn trọn đời. (7979 – 7984)
Qua câu “chảy mòn hai má chảy luôn trọn đời”. Tác giả đã sử dụng thủ pháp khoa trương nhằm làm tăng thêm lòng ăn năn chân thành của Thánh Phê- rô trong suốt cả đời ông.
Ví dụ 9:
Lại còn độc địa khôn lường
Lại còn bêu rếu phi thường chua cay
Rằng: “Nghe lỗ miệng Tên nầy
Tự xưng Thiên Tử cũng tay ngạo đời. (8467 – 8470)
Từ “lỗ miệng” có tính chê bai khinh miệt Chúa Giêsu.
Ví dụ 10:
Kỳ hào ngậm miệng đã lâu
Tiết thêm nọc độc bắt đầu tuôn ra:
“Ngoại trừ hoàng đế Xê- da
Chúng tôi đâu có mồ ma vua nào?” (8561 – 8564)
Từ “tiết thêm nọc độc” nhằm làm tăng thêm tính nham hiểm và độc ác của bọn kỳ hào.
Từ “mồ ma” vừa nói lên sự dua nịnh vừa nói lên sự xảo ngôn của bọn kỳ hào không chấp nhận Chúa Giêsu là Vua mà chỉ thần phục Hoàng đế Xê- da của đế quốc Rôma.
Ví dụ 11:
Lý hình phóng tới vội vàng
Hung hăng như rắn hổ mang vờn mồi
Miệng phun bọt dãi tanh hôi
Bày trò lăng nhục ôi thôi đủ trò. (8585 – 8588)
Từ “rắn hổ mang”, “miệng phun bọt dãi tanh hôi” cũng đều làm tăng thêm tính nham hiểm và độc ác của bọn lý hình.
Trong giao tiếp nghệ thuật, việc phát huy hiệu lực của biện pháp tu từ ngữ nghĩa tuỳ thuộc vào vốn ngôn ngữ và quá trình rèn luyện tư duy của mỗi người. Nhà thơ Nguyễn Xuân Văn đã vận dụng chúng như là các thủ pháp tạo nên các đặc trưng của Sứ Điệp Tình Thường giúp cho người đọc có một chìa đi vào các lớp nghĩa ở cả bề sâu và cấu trúc của nó.
SỬ DỤNG PHÉP ẨN DỤ:
Trong Sứ Điệp Tình Thường, tác giả cũng thường vận dụng phép so sánh không nói thẳng ra, đó là phép ẩn dụ. Khi đọc câu thơ có phép ẩn dụ, người tiếp cận phải dùng năng lực liên tưởng để qui chiếu giữa các yếu tố hiện diện trong câu thơ với các sự vật, hiện tượng tồn tại ngoài câu thơ. Như vậy thực chất của phép ẩn dụ chính là việc dùng tên gọi này để biểu hiện sự vật khác dựa trên cơ chế tư duy và ngôn ngữ dân tộc.
1- Phép ẩn dụ nhân hoá:
Ẩn dụ nhân hoá là kiểu ẩn dụ được xây dựng trên mối quan hệ giữa người và vật. Đó là phép ẩn dụ được hình thành trên cơ chế chuyển nghĩa giữa trường về con người và trường về sự vật mà tác giả đã vận dụng trong tác phẩm của mình.
Ví dụ 1:
Sứ Trời dẫn giải gần xa
“Trái Thần bởi phép Thánh Thần tượng sinh
Hoa trinh giữ vẹn hương trinh
Vườn xuân nắng giãi thêm hình sắc xuân. (147 – 150)
Để diễn đạt mầu nhiệm nhập thể, tác giả đã sử dụng từ “Trái Thần” để nói về Chúa Giêsu và từ “Vườn xuân” là nói về Đức Mẹ.
Ví dụ 2:
Dưới chân con bóng đã tròn
Chúa dừng nghỉ mệt tránh đòn nắng trưa. (957 – 958)
Thi sĩ đã sử dụng từ “con bóng” để nhân cách hoá “ông mặt trời” đang “đánh đòn nắng trưa”.
Ví dụ 3:
Qua cơn sóng nổi gió trôi
Thầy trò im lặng cùng ngồi nhìn xa
Dần dần thấy đất Giét- xa
Con thuyền mệt mỏi vượt qua biển hồ. (2367 – 2370)
Rõ ràng tác giả dùng từ “con thuyền mệt mỏi” để diễn tả trạng thái của các môn đệ vừa thoát qua cơn bão táp trong đêm.
Ví dụ 4:
Được Lời không nhận lấy Lời
Không tin nơi Đấng mà Người đã sai. (2951 – 2952)
Từ “Lời” ở đây không thể hiểu là lời nói mà chắc chắn là nói về “Đấng” mà Chúa Cha đã sai đến thế gian, đó chính là Chúa Giêsu, Ngài là Ngôi Lời của Thiên Chúa.
Ví dụ 5:
Chúa xuân ví đến kịp thời
Hoa xuân đâu bị dập vùi cho cam. (5331 – 5332)
Từ “Chúa xuân” là nói đến Chúa Giêsu, còn từ “Hoa xuân” là ám chỉ La- da- rô.
Ví dụ 6:
Ai trao câu đố vào tai?
Cho người khó đứng cho ai khôn ngồi
Kể từ buổi ấy qua rồi
Biết vàng cao giá, lửa thôi thử vàng. (5995 – 5998)
Từ “vàng” là nói về Chúa Giêsu, từ “lửa” ám chỉ biệt phái.
Ví dụ 7:
Thiên thần chẳng rõ chẳng hay
Con Người cũng chẳng được bày tỏ ra
Chỉ riêng mình Đức Chúa Cha
Đo lường tuổi tác trời già mà thôi. (6457 – 6460)
Có lẽ chỉ có các loại sinh vật theo cái qui luật sinh bệnh lão tử thì mới già, chứ trời đất thì không theo qui luật này nên không ai gọi “trời già”. Tác giả đã nhân cách hoá tuổi tác của ông trời nhằm mục đích nói đến ngày cánh chung mà thôi.
Ví dụ 8:
Dù Thầy có phải ra đi
Là đi sắp chỗ thay vì các con
Bao giờ hoa nở trăng tròn
Sẽ quay trở lại nước non trùng phùng. (6967 – 6970)
Từ “trùng phùng” diễn đạt sự gặp gỡ của con người, cho nên trong câu thơ này từ “nước non” phải hiểu là đại biểu cho Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài.
2- Phép ẩn dụ tượng trưng:
Tác giả Sứ Điệp Tình Thường cũng thường sử dụng ẩn dụ tương trưng là loại ẩn dụ được dùng đi dùng lại nhiều lần trở thành các hình ảnh có giá trị tượng trưng.
Ví dụ 1:
Chân trời mộng ước lùi xa
Nghĩ thôi mai cỗi trúc già thì thôi
Chim bay về núi tối rồi
Ngày xanh mấy thuở vãn hồi cho đâu? (45 – 48)
Trong đoạn thơ trên, rõ ràng các từ “mai cỗi”, “trúc già”, phải hiểu đó là nói về ông bà Giacaria đã già yếu và từ “chim bay” trong câu “ về núi tối rồi” là nói về tuổi già của ông bà đã không còn khả năng sinh con.
Ví dụ 2:
Vợ chồng sum họp đề huề
Nước non như cũ, trăng thề còn nguyên. (85 – 86)
Từ “nước non” và từ “trăng thề” thường biểu hiện cho tình yêu nam nữ, tình yêu vợ chồng.
Ví dụ 3:
Thầy trò vui chuyện đổi thay
Chúa rằng: “ Thiên hạ cho Thầy là ai?”
Thưa rằng: “Kẻ trúc, người mai
Nào Gioan Tẩy giả, nào Ngài Ê- li. (3167 – 3168)
Trong mạch thơ này thì từ “trúc” và từ “mai” là nhằm nói đến các tiên tri và các ngôn sứ trong Cựu ước.
Ví dụ 4:
Ngày kia vào đến một làng
Dân Sâm- ri hận chẳng màng đón đưa
Giắc, Gioan nổi sấm sét thưa:
“Lửa trời khiến đốt cho chừa, nên chăng?” (3487 – 3490)
Từ “nổi sấm sét” trong câu thơ này tượng trưng cho sự tức giận.
Ví dụ 5:
Mặt rồng lộ vẻ vui tươi
Hân hoan chào khách nói lời tri ân. (6149 – 6150)
Từ “mặt rồng” là từ ẩn dụ nhằm nói đến nhà vua.
3- Phép ẩn dụ ngụ ngôn:
Ẩn dụ ngụ ngôn là nói đến bài học đạo đức, nói tới triết lý nhân sinh. Ẩn dụ ngụ ngôn tác động đến người ta một cách thấm thía vì đó là sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố hiện thực của ngôn ngữ và chất suy tưởng. Có thể nói đây là hình thức phát triển của ẩn dụ nhân hoá.
Mặc dù Thánh Kinh Tân Ước đầy ắp những dụ ngôn bằng văn xuôi của Chúa Giêsu, nhưng Linh mục Nguyễn Xuân Văn đã chuyển những dụ ngôn ấy qua thể qua thể lục bát một cách khéo léo mà không làm mất đi nội dung giáo lý và đạo đức, về cách ứng xử giữa con người với con người.
Ví dụ 1: Dụ ngôn “Cỏ lùng”:
Nước Trời giống cảnh thôn quê
Sang thu chủ ruộng lo bề tăng gia
Gieo xong giống tốt về nhà
Kẻ thù lén đến rắc pha cỏ lùng
Lúa lên thành gié thành bông
Cỏ lùng xuất hiện lộn sòng đứng chen
Tình hình đám ruộng rối ren
Gia nhân đem chuyện trình lên chủ nhà:
“Ông gieo giống tốt kia mà,
Cỏ đâu đến mọc ai pha trộn vào?”
Chủ rằng: “Chắc kẻ thù nào,
Muốn gây thêm chuyện hỗn hào với ta”.
Có người xin dọn ruộng nhà
Chủ rằng: “Đừng vội! Chẳng thà để yên.
Lúa và cỏ sẽ lớn lên
Tạm thời để nó chẳng nên nhổ lầm
Đến mùa ta sẽ tới thăm
Bảo đoàn thợ gặt lưu tâm thi hành
Cỏ thì bó lại từng khoanh
Quăng vào lửa đốt cho thành bụi tro
Lúa thu vào lẫm vào kho,
Có chi mà phải âu lo nhọc mình”. (2261 – 2282)
Ví dụ 2: Dụ ngôn “Con chiên lạc”:
Có người chăm sóc chiên non
Trăm con thấy thiếu một con trong ràn
Cả bầy để lại rừng hoang
Thương con chiên lạc sẵn sàng xông pha
Mấy đèo mấy suối cũng qua
Không đành bỏ nó đắm sa lạc loài
Thấy chiên mắc giữa bụi gai
Gỡ ra vác thẳng trên vai đem về
Mà lòng sung sướng tràn trề
Biện pháp tu từ ngữ nghĩa trong tiếng Việt bao gồm các phép so sánh, phép ẩn dụ, phép hoán dụ và phép khoa trương. Linh mục Thi sĩ Nguyễn Xuân Văn đã vận dụng rất khéo những biện pháp tu từ ngữ nghĩa này và chúng ta sẽ cùng thưởng thức các thủ pháp của ngài qua tác phẩm Sứ Điệp Tình Thương.
I- SỬ DỤNG PHÉP SO SÁNH:
So sánh là đặt hai hay nhiều sự vật, hiện tượng vào các mối quan hệ nhất định nhằm tìm ra các sự giống nhau và khác biệt giữa chúng. Cơ sở của phép so sánh tu từ học chính là tính khác biệt về chất và về loại giữa các sự vật, hiện tượng.
Như vậy thực chất của phép so sánh tu từ là dùng thuộc tính hay tình trạng của sự vật, hiện tượng này để giải thích cho thuộc tính hay tình trạng của sự vật khác.
Phép so sánh tu từ bao gồm: so sánh có từ so sánh, so sánh ngang bằng, so sánh bậc hơn kém, so sánh bậc cao nhất và so sánh không có từ so sánh.
1- So sánh có từ so sánh:
Khi sử dụng phép so sánh có từ so sánh, các nhà thơ thường sử dụng các từ : như, là, hơn, kém, nhất.
Ví dụ 1:
Họ rằng: “Môn đệ ông Gioan
Tịnh chay kinh kệ tân toan liền ngày
Còn như quý đệ tử đây
Trà trưa, rượu sớm, mặt dày lắm sao?” (1357 - 1360)
Ví dụ 2:
Chúa rằng: “Dầu tự chứng minh
Chứng Ta vẫn chắc như đinh cột nhà. (3701 – 3702)
Ví dụ 3:
Bỗng nghe tiếng Chúa gọi to:
“Hỡi thằng ngu ngốc như bò nghe đây. ” (4389 – 4390)
Ví dụ 4:
Bao lần Ta đã quan hoài
Muốn thu con cái lạc loài của ngươi
Như gà mẹ chạy tới lui
Thu con dưới cánh chăm nuôi không ngừng. (4509 – 4512)
Ví dụ 5:
Cùng nhau một hội một thuyền
Thương nhau như cắt máu truyền cho nhau. (6893 – 6894)
Ví dụ 6:
Oai nghi khiếp quỷ kinh ma
Chúng nghe như sét nổ va ngang đầu
Giựt mình cả bọn ngã nhào
Chẳng còn biết đất trời đâu mà rờ. (7699 – 7702)
Ví dụ 7:
Bỗng nom thấy cuộn dây thừng
Quần ma bỏ lại cạnh rừng đêm qua
Đôi ngươi trực thị Giu- đa
Loé lên như thể bị tà thôi miên. (8121 – 8124)
Ví dụ 8:
Người đâu mặt mũi hoà hiền
Mà trông phong độ như viền hào quang
Vẻ gì chính trực đàng hoàng
Vẻ gì cao quí hiên ngang tuyệt vời. (8225 – 8228)
Ví dụ 9:
Dân càng già miệng già hàm
Lồng lên như ngựa bất kham thét gào. (8327 – 8328)
Ví dụ 10:
Đánh thôi đất thảm trời sầu
Khắp người toé máu nát nhầu thịt da
Ngọn roi như đốt lưng ngà
Gươm đâm xé ruột muối chà tưa gan. (8441 – 8444)
Ví dụ 11:
Quan liền cắt đội lý hình
Pháp trường điệu Chúa đóng đinh mặc lòng
Tuyên xong bản án bất công
Nghe lòng như bị mũi chông đâm vào. (8569 – 8572)
Ví dụ 12:
Kỳ hào tư tế hả hơi
Bá vai thủ hạ vang trời hò reo
Như vừa đánh thắng một keo
Như vừa trút bỏ đá đeo bên mình
Thét lên như bị động kinh:
Mau cho hắn nếm mũi đinh tử thần. (8575 – 8580)
2- So sánh không có từ so sánh:
Cái hay của phép so sánh là so sánh không từ so sánh mà nhà thơ Nguyễn Xuân Văn thường viết trong Sứ điệp tình thường. Sau đây là một số đoạn thơ đơn cử:
Ví dụ 1:
Phúc thay dân chúng Sâm- ri
Càng nghe giảng thuyết càng suy phục nhiều
Không vì thiếu phụ bao nhiêu
Mà vì Lời Chúa cao siêu nhiệm mầu. (1059 – 1062)
Ví dụ 2:
Lời cao dẫn giải thêm cao
Ý sâu nghĩa lý thêm vào càng sâu. (1295 – 1296)
Ví dụ 3:
Tuy hèn vẫn có dưới tay
Một vài tên lính thường ngày ra công
Chỉ đông phải đến bên đông
Chỉ tây cũng phải buộc lòng sang tây
Huống hồ uy đức của Thầy
Tới lui để nhọc gót giày dám đâu. (1827 – 1832)
Ví dụ 4:
Gioan là đèn sáng mặc dầu
Ta còn có chứng sở cầu nơi Cha
Chứng rằng: “Cha đã sai Ta
Chứng bằng lời nói, chứng qua việc làm. ” (2945 – 2946)
Ví dụ 5:
Luật Trời thì các ngươi quăng
Mà khư khư giữ thói xằng người xưa
Dám coi luật Chúa bằng thừa
Vừa không tôn trọng lại vừa bỏ qua. (3009 –3012)
Ví dụ 6:
Chúa rằng: “Xéo khỏi nơi đây
Sa- tan gây rối cho Thầy hay sao?
Lời sao chẳng được lời nào?
Ý người xa ý trời cao nghìn trùng. (3205 – 3208)
Ví dụ 7:
Các con hãy khá nhớ lời
Nếu không sống lại cuộc đời bé thơ
Để mà đón nhận ước mơ
Quyết không đến được bến bờ tiêu diêu. (3347 – 3350)
Ví dụ 8:
Chúa rằng: “Mang lấy tội khiên
Là mang lòi tói mang xiềng mang gông. (3771 – 3772)
Ví dụ 9:
Hỡi ôi! Đức Mẹ Đồng Trinh
Ôm con yêu dấu thống tình khóc than
Mạch sầu núi lở khó hàn
Dòng sầu đá chảy tuyết tan khôn cầm
Ai ngăn nổi giọt lệ thầm
Ai cầm nổi máu tim bầm ứa ra. (9087 – 9092)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét