Kho tàng tục ngữ người Việt có hơn 100 câu nói về con trâu với biết bao suy tư về đường ăn nét ở, thế thái nhân tình nhẹ nhàng, sâu sắc mà thấm thía, cho thấy vai trò lịch sử khó lòng thay thế của loài vật này trong việc hình thành văn hóa Việt.
Trong lịch sử can chi đã quen dùng ở phương Đông số thứ tự thứ 2 là Sửu tượng trưng bằng con trâu. Giờ Sửu được tính từ 1 đến 3h đêm, là thời gian yên tĩnh nhất, mọi người ngủ say, thế nhưng con trâu lại thức lặng lẽ nhai lại.
Tháng Sửu là tháng Chạp, là tháng mà mọi người hân hoan đón Tết. Trong 12 con vật thời gian, trâu là con vật to nhất, khỏe nhất. Trâu sớm được thuần hóa, gần gũi với con người, giúp con người trong việc đồng áng nên người nông dân coi trâu như người bạn thân.
Trong ca dao dân ca, trâu được nói đến nhiều vì trâu đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt ở nông thôn. Từ việc ví von về tuổi tác đến việc đồng áng, tình yêu nam nữ... đều có mặt trâu. Trâu gần gũi thân thiết với con người như hình với bóng. Thế nên trong cơ nghiệp nhà nông con trâu được xếp hạng nhất "Con trâu là đầu cơ nghiệp".
Tuổi sửu con trâu kềnh càng,
Cày chưa đúng buổi lại mang cày về.
Trâu thay sức người làm công việc đồng áng nên việc mua sắm trâu là việc hệ trọng. Nhà nghèo thường khó sắm được trâu để làm mùa, phần nhiều là mướn trâu.
Tậu trâu, lấy vợ, cất nhà
Trong ba việc ấy thật là khó thay
Từ buổi đầu lịch sử, khi dân ta biết trồng cây lúa nước con trâu đã là người bạn thân thiết gắn bó với nông dân. Tất cả đều phải cần cù làm lụng, hỗ trợ cho nhau để có miếng ăn.
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công
Bao giờ ngọn lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn
Đôi khi người nông dân cũng tâm tình thì thầm to nhỏ cùng trâu như nói chuyện với một đứa trẻ con.
Nghé ơi ta bảo nghé này
Nghé ăn cho béo nghé cày cho sâu
Ở đời khôn khéo chi đâu
Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần.
Tuy bận rộn vất vả trong những ngày mùa nhưng trâu cũng có ngày thong thả đứng bên bờ ruộng ăn cỏ tươi hoặc nằm trong chuồng nhỏ nhẹ nhấm bó rơm khô. Số phận của con trâu và người nông dân gắn bó đồng cam cộng khổ.
Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu.
Nông dân rất quý con trâu, nó là một phần tài sản của họ. Nó đã được đưa ra so sánh đánh giá sự giàu nghèo.
Thằng bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Và hình ảnh thằng Cuội chăn trâu cũng thật thà đáng thương
Chú Cuội ngồi gốc cây đa
Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cưỡi ngựa đi chơi cầu vồng
Hình ảnh con trâu cũng được dùng để phê phán những kẻ lừa đảo chỉ biết vì quyền lợi cá nhân.
Lái trâu, lái lợn, lái bò
Trong ba anh ấy chớ nghe anh nào
Hoặc tỏ thái độ mỉa mai, châm biếm
Thật thà như thể lái trâu,
Yêu nhau như thể nàng dâu mẹ chồng.
Ai cũng biết buôn bán thì không thể có sự thật thà, quan hệ mẹ chồng, nàng dâu cũng rất phức tạp, khó có sự dung hòa được.
Lại có câu ca dành cho người thích lấy vợ dại, ngoan hiền
Vợ dại thì đẻ con khôn
Trâu chậm lắm thịt, rựa cùn chịu băm
Bởi vậy ta nên trở về với cái vốn có không nên quá mộng tưởng. Cái gì của mình có sẵn quý hơn vì nó là có thực.
Trâu ta ăn cỏ đồng ta
Tuy rằng cỏ cụt nhưng là cỏ thơm
Và rất nhiều người bằng lòng với cuộc sống hiện tại, cho như thế là sung sướng hơn người.
Ai bảo chăn trâu là khổ
Không, chăn trâu sướng lắm chứ?
Ngồi lưng trâu ta hát nghêu ngao...
Con trâu cũng là đề tài để người ta trêu chọc nhau một cách tình tứ trong những lúc lao động để quên đi nỗi mệt nhọc, vất vả.
Trâu kia kén cỏ bờ ao
Anh kia không vợ đời nào có con
Người ta có trước có sau
Thân anh không vợ như cau không buồng
Cau không buồng như tuồng cau đực
Trai không vợ cực lắm anh ơi
Người ta đi đón, về đôi
Thân anh đi lẻ, về loi một mình
Hoặc để gợi chuyện làm quen nhau:
Hỡi cô cắt cỏ bên đồng
Nuôi trâu cho béo làm giàu cho cha
Giàu thì chia bảy chia ba
Thân em là gái được là bao nhiêu?
Các cô gái cũng hóm hĩnh, đáo để không kém
Cưới em tám vạn trâu bò
Bảy vạn dê lợn, chín vò rượu tăm
Đến khi có vợ rồi nên một lòng một dạ không nên bắt chước những người đi trước năm thê bảy thiếp để rồi gặp phải cảnh.
Ba vợ bảy nàng hầu
Đêm nằm chuồng trâu, gối đầu bằng chổi.
Trâu anh con cưỡi con dòng
Có con đi trước lòng thòng theo sau.
Và đôi khi là những hình ảnh ẩn dụ về những ngang trái mà con trâu phải gánh chịu.
Con trâu có một hàm răng
Ăn cỏ đồng bằng uống nước bờ ao
Thời sống mày đã thương tao
Bây giờ mày chết cầm dao xẻ mày
Thịt mày tao nấu linh đình
Da mày bịt trống tụng kinh trong chùa
Sừng mày tao tiện con cờ
Làm dao, cán mác, lược dày, lược thưa…
Thời gian dần qua đi. Theo đó, hình ảnh mục đồng vắt vẻo trên lưng trâu, hát ngêu ngao những bài đồng dao cũng đã dần mất đi. Thế nhưng hình ảnh làng quê, đồng ruộng, cây lúa, con trâu vẫn thấm sâu vào tâm hồn người dân Việt.
==================
Con trâu trong văn hoá Việt Nam
Trong mười hai con giáp, trâu là loài vật thiết thân với nông dân và nông nghiệp, nông thôn Việt Nam suốt trường kỳ lịch sử. Chẳng rõ con trâu có ở trái đất từ bao giờ, chỉ biết các nhà khoa học đã tìm thấy hóa thạch của loài vật này có niên đại cách ngày nay hàng chục vạn năm trên các hang động ở miền Bắc nước ta. Trong Kho tàng tục ngữ người Việt có hơn 100 đơn vị câu nói về loài vật này. Quan trọng hơn, từ những tục ngữ trâu ấy là biết bao lắng đọng, kết tinh về đường ăn nét ở, thế thái nhân tình nhẹ nhàng, sâu sắc mà thấm thía.
Với cư dân nông nghiệp xưa, con trâu là cả một khối tài sản vật chất khổng lồ - đầu cơ nghiệp. Không gì quý hóa và ý nghĩa như con vật này đối với nông dân. Thậm chí, ngay cả những người thuộc tầng lớp trên trong xã hội cũng xem trâu là “thước đo” của sự giàu sang sung túc. Ai quên được hình ảnh gã phú ông giàu nứt đố đổ vách khoe mình có ba bò chín trâu trong bài ca dao với thằng Bờm.
Bên cạnh cưới vợ, làm nhà thì tậu trâu rõ ràng là việc lớn đối với mỗi gia đình. “Ruộng sâu, trâu nái không bằng con gái đầu lòng” tuy nói về hạnh phúc của các cặp vợ chồng trẻ lần đầu được làm cha làm mẹ nhưng gián tiếp cho chúng ta biết quan niệm về sự giàu có. Chính vì vậy, người xưa nhắc nhở: “Sai con toán, bán con trâu” - làm ăn, buôn bán không cẩn thận phải bán cả cơ nghiệp, chẳng phải chuyện đùa.
“Trâu chết để da, người chết để tiếng” là lời răn dạy nhẹ nhàng của người xưa đến lúc nhắm mắt xuôi tay vẫn nên giữ gìn lấy cốt cách, phẩm hạnh. "Trâu, dê lúc chết tế ruồi/ Sao bằng lúc sống ngọt bùi là hơn" để lại bài học về cách ứng xử sao cho hài hòa, êm đẹp."Trâu bò được ngày phá đỗ/Con cháu được ngày giỗ ông" chứa đựng niềm hạnh phúc “hiếm hoi” no đủ khi con cháu “tưởng nhớ” ông bà. Quan hệ mua bán sòng phẳng có: “Trâu trao trạc (thừng), bạc trao tay/Trâu buộc thì ghét trâu ăn/Quan võ thì ghét quan văn dài quần” nói về sự ganh ghét nhỏ nhen, đố kỵ tầm thường thời nào cũng tồn tại.
Trâu bò đánh nhau ruồi muỗi chết chính là nỗi oan gia mà người dân thấp cổ bé họng thường bị cuốn theo. Những ai bị nhiều tầng bóc lột có thể thấy mình qua hình ảnh: "Voi đạp cũng chết, trâu đạp cũng chết/Trâu chậm uống nước đục hay Trâu chậm uống nước dơ/Trâu ngơ ăn cỏ héo là “hiện thực” không mấy dễ chịu luôn diễn ra trong cuộc chiến giành sự sống giữa đời thường. "Trâu đẻ tháng mười, người đẻ tháng sáu" đem lại niềm vui không trọn vẹn, chẳng đúng lúc (tháng mười và tháng sáu là hai tháng bận rộn gặt hái nhất của nhà nông). Kẻ hợm mình về học vấn có thể “soi gương” qua câu thành ngữ: "Trâu kén cỏ trâu gầy, trò kén thầy trò dốt. Với hình ảnh “trâu” và “cỏ”, người xưa bộc lộ quan niệm hôn nhân trong nội bộ làng xã - o bế, khép kín (đến nay không còn phù hợp): "Trâu ta ăn cỏ đồng ta/Tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ thơm; Trâu đồng nào ăn cỏ đồng nấy… Những cuộc hôn nhân kiểu này, sự “chủ động” chỉ có ở một phía bởi suy nghĩ "trâu dắt đến cọc, cọc chẳng dắt đến trâu". Người mải mê kén chọn nhân duyên hẳn có lúc giật mình: "trâu quá sá, mạ quá thì". Người tuổi cầm tinh con trâu, thường tự cho mình vất vả, phải "kéo cày trả nợ"…
Cũng không phải ngẫu nhiên, hình ảnh “trâu” luôn hiện lên trong sự đối sánh với “bò”: chúng tương đồng về vóc dáng, khối lượng công việc phải đảm nhiệm nhưng sức lực lại nhiều khác biệt: “Yếu trâu hơn khỏe bò/Trâu ho hơn bò rống”. Và dân gian có cả một núi tri thức để chọn giống, xem tướng trâu bò. “Trâu cổ cò, bò cổ giải” là cách tìm trâu bò khỏe: trâu cổ tròn, dài; bò cổ ngắn, có ngấn (như cổ con giải). Trâu dắt ra (đồng), bò dắt vào (chuồng) cho kinh nghiệm chọn trâu bò siêng năng. “Trâu to ngà (sừng) càng già đường kéo/Trâu khỏe chẳng lọ cày trưa/Mạ già ruộng ngấu không lo bạn điền”. Trẻ mục đồng phải thuộc bài học “vỡ lòng”: trâu dong, bò dắt (vì bò hay đá hậu). “Trâu hoa tai, bò gai sừng/Trâu mõm đen, bò lưỡi trắng” chỉ loại trâu bò yếu, hết sức cày (tai nhiều lông, sừng xù xì) hoặc không ra gì. Tệ hơn nữa là “Trâu nghiến hàm, bò bạch thiệt” (lưỡi trắng) hay “Trâu trắng đi đâu, mất mùa đến đấy”, theo quan niệm duy tâm, trâu bò loại này thường báo điềm không hay cho gia chủ.
Bên cạnh tục ngữ thì ca dao người Việt xưa cũng có những dòng thật "xứng đáng” về trâu. Này là lời nhắn gửi thiết tha, ân tình sâu nặng của nhà nông với bạn “đồng hành” chung thủy: “Trâu ơi ta bảo trâu này/Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta/ Cấy cày vốn nghiệp nông gia/ Ta đây, trâu đấy ai mà quản công/ Bao giờ cây lúa còn bông/ Thời còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn…”. Hay bức tranh quê đặc sắc, hàm chứa những giá trị văn hóa vĩnh hằng: “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu/Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”. Còn có thể nói gì hơn về câu ca dao ấy. Tuy không đến độ “Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày” nhưng mọi người đều cảm nhận được đằng sau vẻ đẹp lao động thanh bình, hạnh phúc kia là bao cực nhọc, vất vả. Và điều đáng nói hơn, con trâu hiện lên “bình đẳng” với người như một chủ thể lao động không thể bỏ sót.
Từ dòng chảy văn hóa dân gian, hình tượng con trâu còn đường hoàng đi vào văn chương bác học. Thơ Tam nguyên Yên Đổ có:“Trâu già gốc bụi phì hơi nắng/Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người”; thơ Bà Huyện Thanh Quan lúc “chiều hôm nhớ nhà” còn đây hình ảnh: “Gõ sừng mục tử lại cô thôn”. Cũng chính người nữ sĩ tài danh đất Bắc ấy vì quá “nể nang” từng “vượt rào” mà “bút phê” vào đơn xin thịt trâu của một cống sinh (sau khi thi đỗ) rằng: “Người ta thì chẳng được đâu/Ừ thì ông Cống làm trâu thì làm” bởi xưa mổ trâu là việc hệ trọng, có thể gây hậu quả xấu đến sản xuất nông nghiệp.
Trong đời sống nghệ thuật truyền thống, hơn 3.000 năm trước, tượng trâu nghệ thuật bằng đất nung từng xuất hiện trong các di chỉ văn hóa Đồng Đậu. Trâu “có mặt” trong điêu khắc gỗ đình làng thế kỷ 17 - 18; trong bức tranh tứ bình Ngư - Tiều - Canh - Mục đặc sắc với hình em bé ngồi vắt vẻo trên lưng trâu thổi sáo. Chúng ta còn thấy trâu được chạm khắc trên bề mặt trống đồng (trống Vĩnh Hùng). Ngoài ra, trâu là vật hiến sinh quen thuộc trong nghi lễ nông nghiệp; có cả một Lễ hội đâm trâu tồn tại đến ngày nay ở vùng đất nóc nhà Đông Dương (Tây Nguyên) liên quan tới phong tục - tập quán, tín ngưỡng - tôn giáo của đồng bào người Thượng. Tại Đồ Sơn (Hải Phòng), hội chọi trâu đã trở thành điểm sáng văn hóa có sức hấp dẫn lớn với du khách gần xa: “Dù ai buôn đâu bán đâu/ Mồng mười tháng tám chọi trâu thì về/ Dù ai buôn bán trăm nghề/ Mồng mười tháng tám nhớ về chọi trâu”.
Theo cố giáo sư Trần Quốc Vượng (1934 - 2005), chọi trâu là tàn dư xa xôi của lễ hội thờ Trăng (sừng trâu gợi hình ảnh trăng lưỡi liềm), biểu tượng của xung lực vũ trụ. Chọi trâu hàng năm là để tái vận hành và tiếp sức sinh sôi nguồn xung lực, sinh lực của Trời - Đất - Con người.
Thời hiện đại, trâu không hề vắng bóng trong các tác phẩm văn học nghệ thuật. Lúc bị giam cầm trong nhà lao Tưởng Giới Thạch, giải tới giải lui suốt mười ba huyện ở Quảng Tây, Hồ Chủ tịch không khỏi ngậm ngùi: "Trên đời ngàn vạn điều cay đắng/Cay đắng chi bằng mất tự do/ Mỗi việc một lời không tự chủ/ Để cho người dắt tựa trâu bò". Bị đày ải trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt “Gió sắc tựa gươm mài đá núi/ Rét như dùi nhọn chích cành cây”, Người vẫn thu vào tầm mắt cảnh thôn quê bình dị: "Chùa xa chuông giục người nhanh bước/ trẻ dắt trâu về tiếng sáo bay".
Hai nhà văn Trần Tiêu, Nguyên Văn Bổng dù mang nhân sinh quan, thế giới quan khác nhau, có sự cách biệt của hai thời đại, hai thế giới nghệ thuật (trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945), đều có tiểu thuyết cùng tên Con trâu. Đến hôm nay, dẫu hai tác phẩm này đã hết sứ mệnh lịch sử, lùi vào quá vãng thì người ta vẫn không thể phủ nhận: con trâu từng là nguồn cảm hứng sáng tạo lớn đối với nhiều thế hệ cầm bút. Cũng không thể không nhắc tới ở đây những vần thơ có sức mạnh đi qua thời gian: "Ai bảo chăn trâu là khổ?/ Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao" (Giang Nam); "Mình về ta gửi về quê/ Thuyền nâu, trâu mộng với bè nứa mai… Trâu về xanh lại Thái Bình/ Nứa mai gài chặt mối tình ngược xuôi" (Tố Hữu). Quả thực, “chính con trâu tự nó đạt tới biểu tượng của nền văn hóa, đã giúp cho nhà văn, nhà thơ biết thi vị hóa, đem lại chất lãng mạn cho văn chương” (PGS. Đào Thản).
Con trâu từ chỗ là tư liệu sản xuất nông nghiệp hiện thực vụt biến thành biểu tượng của sự sống đâm chồi nảy lộc trở lại sau chín năm kháng chiến gian khổ. Rồi giữa những ngày dân tộc sục sôi đánh Mỹ, trâu lại đi vào trang văn Nguyên Ngọc - Nguyễn Trung Thành với hiệu quả thẩm mỹ lớn - hiện thân cho hồn cốt quê hương, “dáng hình xứ sở” - phải yêu thương và bảo vệ: "Trên cánh đồng xưa, cha ta ngày đêm kéo cày gãi đất và con trâu cũng lầm lụi như người…".
Còn nhiều nữa những con trâu thơ hiện lên như tín hiệu nghệ thuật nhấp nháy, đầy suy tư, trăn trở. Thi sĩ Chế Lan Viên mượn cờ lau, mượn con trâu ra trận của Đinh Bộ Lĩnh nghìn năm trước mà khắc khoải: "Lòng ta mục đồng/Cũng đi chăn đấy; Con trâu nghé ọ/ Có cặp sừng bỡ ngỡ/ Chiều buồn không biết cọ vào đâu". Trâu gắn với kỷ niệm một thời mực tím: "Thướt tha áo trắng nói cười/ Để ta thương nhớ một thời áo nâu/ Tóc hoe hoe cháy trên đầu/ Ta và bạn gái cưỡi trâu học bài (Nguyễn Duy). Trâu là “chứng chỉ” để thi nhân bước vào làng thơ: "Chăn trâu đốt lửa trên đồng/ Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều/ Mải mê đuổi một con diều/ Củ khoai nướng để cả chiều thành tro"(Đồng Đức Bốn)…
Ngày nay ở Việt Nam, quá trình Công nghiệp hóa tác động mạnh mẽ đến muôn mặt đời sống đất nước. Tại các vùng nông thôn, ngày càng ít dần đi hình ảnh "Con trâu đi trước, cái cày theo sau" nhưng chắc chắn, con trâu chưa hết vai trò lịch sử - đã, đang và vẫn là một trong thành tố cơ bản của văn hóa Việt Nam.
Nguồn: Internet.
Thứ Sáu, 17 tháng 9, 2010
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Thứ Sáu, 17 tháng 9, 2010
Con trâu trong dân ca, ca dao
Kho tàng tục ngữ người Việt có hơn 100 câu nói về con trâu với biết bao suy tư về đường ăn nét ở, thế thái nhân tình nhẹ nhàng, sâu sắc mà thấm thía, cho thấy vai trò lịch sử khó lòng thay thế của loài vật này trong việc hình thành văn hóa Việt.
Trong lịch sử can chi đã quen dùng ở phương Đông số thứ tự thứ 2 là Sửu tượng trưng bằng con trâu. Giờ Sửu được tính từ 1 đến 3h đêm, là thời gian yên tĩnh nhất, mọi người ngủ say, thế nhưng con trâu lại thức lặng lẽ nhai lại.
Tháng Sửu là tháng Chạp, là tháng mà mọi người hân hoan đón Tết. Trong 12 con vật thời gian, trâu là con vật to nhất, khỏe nhất. Trâu sớm được thuần hóa, gần gũi với con người, giúp con người trong việc đồng áng nên người nông dân coi trâu như người bạn thân.
Trong ca dao dân ca, trâu được nói đến nhiều vì trâu đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt ở nông thôn. Từ việc ví von về tuổi tác đến việc đồng áng, tình yêu nam nữ... đều có mặt trâu. Trâu gần gũi thân thiết với con người như hình với bóng. Thế nên trong cơ nghiệp nhà nông con trâu được xếp hạng nhất "Con trâu là đầu cơ nghiệp".
Tuổi sửu con trâu kềnh càng,
Cày chưa đúng buổi lại mang cày về.
Trâu thay sức người làm công việc đồng áng nên việc mua sắm trâu là việc hệ trọng. Nhà nghèo thường khó sắm được trâu để làm mùa, phần nhiều là mướn trâu.
Tậu trâu, lấy vợ, cất nhà
Trong ba việc ấy thật là khó thay
Từ buổi đầu lịch sử, khi dân ta biết trồng cây lúa nước con trâu đã là người bạn thân thiết gắn bó với nông dân. Tất cả đều phải cần cù làm lụng, hỗ trợ cho nhau để có miếng ăn.
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công
Bao giờ ngọn lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn
Đôi khi người nông dân cũng tâm tình thì thầm to nhỏ cùng trâu như nói chuyện với một đứa trẻ con.
Nghé ơi ta bảo nghé này
Nghé ăn cho béo nghé cày cho sâu
Ở đời khôn khéo chi đâu
Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần.
Tuy bận rộn vất vả trong những ngày mùa nhưng trâu cũng có ngày thong thả đứng bên bờ ruộng ăn cỏ tươi hoặc nằm trong chuồng nhỏ nhẹ nhấm bó rơm khô. Số phận của con trâu và người nông dân gắn bó đồng cam cộng khổ.
Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu.
Nông dân rất quý con trâu, nó là một phần tài sản của họ. Nó đã được đưa ra so sánh đánh giá sự giàu nghèo.
Thằng bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Và hình ảnh thằng Cuội chăn trâu cũng thật thà đáng thương
Chú Cuội ngồi gốc cây đa
Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cưỡi ngựa đi chơi cầu vồng
Hình ảnh con trâu cũng được dùng để phê phán những kẻ lừa đảo chỉ biết vì quyền lợi cá nhân.
Lái trâu, lái lợn, lái bò
Trong ba anh ấy chớ nghe anh nào
Hoặc tỏ thái độ mỉa mai, châm biếm
Thật thà như thể lái trâu,
Yêu nhau như thể nàng dâu mẹ chồng.
Ai cũng biết buôn bán thì không thể có sự thật thà, quan hệ mẹ chồng, nàng dâu cũng rất phức tạp, khó có sự dung hòa được.
Lại có câu ca dành cho người thích lấy vợ dại, ngoan hiền
Vợ dại thì đẻ con khôn
Trâu chậm lắm thịt, rựa cùn chịu băm
Bởi vậy ta nên trở về với cái vốn có không nên quá mộng tưởng. Cái gì của mình có sẵn quý hơn vì nó là có thực.
Trâu ta ăn cỏ đồng ta
Tuy rằng cỏ cụt nhưng là cỏ thơm
Và rất nhiều người bằng lòng với cuộc sống hiện tại, cho như thế là sung sướng hơn người.
Ai bảo chăn trâu là khổ
Không, chăn trâu sướng lắm chứ?
Ngồi lưng trâu ta hát nghêu ngao...
Con trâu cũng là đề tài để người ta trêu chọc nhau một cách tình tứ trong những lúc lao động để quên đi nỗi mệt nhọc, vất vả.
Trâu kia kén cỏ bờ ao
Anh kia không vợ đời nào có con
Người ta có trước có sau
Thân anh không vợ như cau không buồng
Cau không buồng như tuồng cau đực
Trai không vợ cực lắm anh ơi
Người ta đi đón, về đôi
Thân anh đi lẻ, về loi một mình
Hoặc để gợi chuyện làm quen nhau:
Hỡi cô cắt cỏ bên đồng
Nuôi trâu cho béo làm giàu cho cha
Giàu thì chia bảy chia ba
Thân em là gái được là bao nhiêu?
Các cô gái cũng hóm hĩnh, đáo để không kém
Cưới em tám vạn trâu bò
Bảy vạn dê lợn, chín vò rượu tăm
Đến khi có vợ rồi nên một lòng một dạ không nên bắt chước những người đi trước năm thê bảy thiếp để rồi gặp phải cảnh.
Ba vợ bảy nàng hầu
Đêm nằm chuồng trâu, gối đầu bằng chổi.
Trâu anh con cưỡi con dòng
Có con đi trước lòng thòng theo sau.
Và đôi khi là những hình ảnh ẩn dụ về những ngang trái mà con trâu phải gánh chịu.
Con trâu có một hàm răng
Ăn cỏ đồng bằng uống nước bờ ao
Thời sống mày đã thương tao
Bây giờ mày chết cầm dao xẻ mày
Thịt mày tao nấu linh đình
Da mày bịt trống tụng kinh trong chùa
Sừng mày tao tiện con cờ
Làm dao, cán mác, lược dày, lược thưa…
Thời gian dần qua đi. Theo đó, hình ảnh mục đồng vắt vẻo trên lưng trâu, hát ngêu ngao những bài đồng dao cũng đã dần mất đi. Thế nhưng hình ảnh làng quê, đồng ruộng, cây lúa, con trâu vẫn thấm sâu vào tâm hồn người dân Việt.
==================
Con trâu trong văn hoá Việt Nam
Trong mười hai con giáp, trâu là loài vật thiết thân với nông dân và nông nghiệp, nông thôn Việt Nam suốt trường kỳ lịch sử. Chẳng rõ con trâu có ở trái đất từ bao giờ, chỉ biết các nhà khoa học đã tìm thấy hóa thạch của loài vật này có niên đại cách ngày nay hàng chục vạn năm trên các hang động ở miền Bắc nước ta. Trong Kho tàng tục ngữ người Việt có hơn 100 đơn vị câu nói về loài vật này. Quan trọng hơn, từ những tục ngữ trâu ấy là biết bao lắng đọng, kết tinh về đường ăn nét ở, thế thái nhân tình nhẹ nhàng, sâu sắc mà thấm thía.
Với cư dân nông nghiệp xưa, con trâu là cả một khối tài sản vật chất khổng lồ - đầu cơ nghiệp. Không gì quý hóa và ý nghĩa như con vật này đối với nông dân. Thậm chí, ngay cả những người thuộc tầng lớp trên trong xã hội cũng xem trâu là “thước đo” của sự giàu sang sung túc. Ai quên được hình ảnh gã phú ông giàu nứt đố đổ vách khoe mình có ba bò chín trâu trong bài ca dao với thằng Bờm.
Bên cạnh cưới vợ, làm nhà thì tậu trâu rõ ràng là việc lớn đối với mỗi gia đình. “Ruộng sâu, trâu nái không bằng con gái đầu lòng” tuy nói về hạnh phúc của các cặp vợ chồng trẻ lần đầu được làm cha làm mẹ nhưng gián tiếp cho chúng ta biết quan niệm về sự giàu có. Chính vì vậy, người xưa nhắc nhở: “Sai con toán, bán con trâu” - làm ăn, buôn bán không cẩn thận phải bán cả cơ nghiệp, chẳng phải chuyện đùa.
“Trâu chết để da, người chết để tiếng” là lời răn dạy nhẹ nhàng của người xưa đến lúc nhắm mắt xuôi tay vẫn nên giữ gìn lấy cốt cách, phẩm hạnh. "Trâu, dê lúc chết tế ruồi/ Sao bằng lúc sống ngọt bùi là hơn" để lại bài học về cách ứng xử sao cho hài hòa, êm đẹp."Trâu bò được ngày phá đỗ/Con cháu được ngày giỗ ông" chứa đựng niềm hạnh phúc “hiếm hoi” no đủ khi con cháu “tưởng nhớ” ông bà. Quan hệ mua bán sòng phẳng có: “Trâu trao trạc (thừng), bạc trao tay/Trâu buộc thì ghét trâu ăn/Quan võ thì ghét quan văn dài quần” nói về sự ganh ghét nhỏ nhen, đố kỵ tầm thường thời nào cũng tồn tại.
Trâu bò đánh nhau ruồi muỗi chết chính là nỗi oan gia mà người dân thấp cổ bé họng thường bị cuốn theo. Những ai bị nhiều tầng bóc lột có thể thấy mình qua hình ảnh: "Voi đạp cũng chết, trâu đạp cũng chết/Trâu chậm uống nước đục hay Trâu chậm uống nước dơ/Trâu ngơ ăn cỏ héo là “hiện thực” không mấy dễ chịu luôn diễn ra trong cuộc chiến giành sự sống giữa đời thường. "Trâu đẻ tháng mười, người đẻ tháng sáu" đem lại niềm vui không trọn vẹn, chẳng đúng lúc (tháng mười và tháng sáu là hai tháng bận rộn gặt hái nhất của nhà nông). Kẻ hợm mình về học vấn có thể “soi gương” qua câu thành ngữ: "Trâu kén cỏ trâu gầy, trò kén thầy trò dốt. Với hình ảnh “trâu” và “cỏ”, người xưa bộc lộ quan niệm hôn nhân trong nội bộ làng xã - o bế, khép kín (đến nay không còn phù hợp): "Trâu ta ăn cỏ đồng ta/Tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ thơm; Trâu đồng nào ăn cỏ đồng nấy… Những cuộc hôn nhân kiểu này, sự “chủ động” chỉ có ở một phía bởi suy nghĩ "trâu dắt đến cọc, cọc chẳng dắt đến trâu". Người mải mê kén chọn nhân duyên hẳn có lúc giật mình: "trâu quá sá, mạ quá thì". Người tuổi cầm tinh con trâu, thường tự cho mình vất vả, phải "kéo cày trả nợ"…
Cũng không phải ngẫu nhiên, hình ảnh “trâu” luôn hiện lên trong sự đối sánh với “bò”: chúng tương đồng về vóc dáng, khối lượng công việc phải đảm nhiệm nhưng sức lực lại nhiều khác biệt: “Yếu trâu hơn khỏe bò/Trâu ho hơn bò rống”. Và dân gian có cả một núi tri thức để chọn giống, xem tướng trâu bò. “Trâu cổ cò, bò cổ giải” là cách tìm trâu bò khỏe: trâu cổ tròn, dài; bò cổ ngắn, có ngấn (như cổ con giải). Trâu dắt ra (đồng), bò dắt vào (chuồng) cho kinh nghiệm chọn trâu bò siêng năng. “Trâu to ngà (sừng) càng già đường kéo/Trâu khỏe chẳng lọ cày trưa/Mạ già ruộng ngấu không lo bạn điền”. Trẻ mục đồng phải thuộc bài học “vỡ lòng”: trâu dong, bò dắt (vì bò hay đá hậu). “Trâu hoa tai, bò gai sừng/Trâu mõm đen, bò lưỡi trắng” chỉ loại trâu bò yếu, hết sức cày (tai nhiều lông, sừng xù xì) hoặc không ra gì. Tệ hơn nữa là “Trâu nghiến hàm, bò bạch thiệt” (lưỡi trắng) hay “Trâu trắng đi đâu, mất mùa đến đấy”, theo quan niệm duy tâm, trâu bò loại này thường báo điềm không hay cho gia chủ.
Bên cạnh tục ngữ thì ca dao người Việt xưa cũng có những dòng thật "xứng đáng” về trâu. Này là lời nhắn gửi thiết tha, ân tình sâu nặng của nhà nông với bạn “đồng hành” chung thủy: “Trâu ơi ta bảo trâu này/Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta/ Cấy cày vốn nghiệp nông gia/ Ta đây, trâu đấy ai mà quản công/ Bao giờ cây lúa còn bông/ Thời còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn…”. Hay bức tranh quê đặc sắc, hàm chứa những giá trị văn hóa vĩnh hằng: “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu/Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”. Còn có thể nói gì hơn về câu ca dao ấy. Tuy không đến độ “Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày” nhưng mọi người đều cảm nhận được đằng sau vẻ đẹp lao động thanh bình, hạnh phúc kia là bao cực nhọc, vất vả. Và điều đáng nói hơn, con trâu hiện lên “bình đẳng” với người như một chủ thể lao động không thể bỏ sót.
Từ dòng chảy văn hóa dân gian, hình tượng con trâu còn đường hoàng đi vào văn chương bác học. Thơ Tam nguyên Yên Đổ có:“Trâu già gốc bụi phì hơi nắng/Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người”; thơ Bà Huyện Thanh Quan lúc “chiều hôm nhớ nhà” còn đây hình ảnh: “Gõ sừng mục tử lại cô thôn”. Cũng chính người nữ sĩ tài danh đất Bắc ấy vì quá “nể nang” từng “vượt rào” mà “bút phê” vào đơn xin thịt trâu của một cống sinh (sau khi thi đỗ) rằng: “Người ta thì chẳng được đâu/Ừ thì ông Cống làm trâu thì làm” bởi xưa mổ trâu là việc hệ trọng, có thể gây hậu quả xấu đến sản xuất nông nghiệp.
Trong đời sống nghệ thuật truyền thống, hơn 3.000 năm trước, tượng trâu nghệ thuật bằng đất nung từng xuất hiện trong các di chỉ văn hóa Đồng Đậu. Trâu “có mặt” trong điêu khắc gỗ đình làng thế kỷ 17 - 18; trong bức tranh tứ bình Ngư - Tiều - Canh - Mục đặc sắc với hình em bé ngồi vắt vẻo trên lưng trâu thổi sáo. Chúng ta còn thấy trâu được chạm khắc trên bề mặt trống đồng (trống Vĩnh Hùng). Ngoài ra, trâu là vật hiến sinh quen thuộc trong nghi lễ nông nghiệp; có cả một Lễ hội đâm trâu tồn tại đến ngày nay ở vùng đất nóc nhà Đông Dương (Tây Nguyên) liên quan tới phong tục - tập quán, tín ngưỡng - tôn giáo của đồng bào người Thượng. Tại Đồ Sơn (Hải Phòng), hội chọi trâu đã trở thành điểm sáng văn hóa có sức hấp dẫn lớn với du khách gần xa: “Dù ai buôn đâu bán đâu/ Mồng mười tháng tám chọi trâu thì về/ Dù ai buôn bán trăm nghề/ Mồng mười tháng tám nhớ về chọi trâu”.
Theo cố giáo sư Trần Quốc Vượng (1934 - 2005), chọi trâu là tàn dư xa xôi của lễ hội thờ Trăng (sừng trâu gợi hình ảnh trăng lưỡi liềm), biểu tượng của xung lực vũ trụ. Chọi trâu hàng năm là để tái vận hành và tiếp sức sinh sôi nguồn xung lực, sinh lực của Trời - Đất - Con người.
Thời hiện đại, trâu không hề vắng bóng trong các tác phẩm văn học nghệ thuật. Lúc bị giam cầm trong nhà lao Tưởng Giới Thạch, giải tới giải lui suốt mười ba huyện ở Quảng Tây, Hồ Chủ tịch không khỏi ngậm ngùi: "Trên đời ngàn vạn điều cay đắng/Cay đắng chi bằng mất tự do/ Mỗi việc một lời không tự chủ/ Để cho người dắt tựa trâu bò". Bị đày ải trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt “Gió sắc tựa gươm mài đá núi/ Rét như dùi nhọn chích cành cây”, Người vẫn thu vào tầm mắt cảnh thôn quê bình dị: "Chùa xa chuông giục người nhanh bước/ trẻ dắt trâu về tiếng sáo bay".
Hai nhà văn Trần Tiêu, Nguyên Văn Bổng dù mang nhân sinh quan, thế giới quan khác nhau, có sự cách biệt của hai thời đại, hai thế giới nghệ thuật (trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945), đều có tiểu thuyết cùng tên Con trâu. Đến hôm nay, dẫu hai tác phẩm này đã hết sứ mệnh lịch sử, lùi vào quá vãng thì người ta vẫn không thể phủ nhận: con trâu từng là nguồn cảm hứng sáng tạo lớn đối với nhiều thế hệ cầm bút. Cũng không thể không nhắc tới ở đây những vần thơ có sức mạnh đi qua thời gian: "Ai bảo chăn trâu là khổ?/ Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao" (Giang Nam); "Mình về ta gửi về quê/ Thuyền nâu, trâu mộng với bè nứa mai… Trâu về xanh lại Thái Bình/ Nứa mai gài chặt mối tình ngược xuôi" (Tố Hữu). Quả thực, “chính con trâu tự nó đạt tới biểu tượng của nền văn hóa, đã giúp cho nhà văn, nhà thơ biết thi vị hóa, đem lại chất lãng mạn cho văn chương” (PGS. Đào Thản).
Con trâu từ chỗ là tư liệu sản xuất nông nghiệp hiện thực vụt biến thành biểu tượng của sự sống đâm chồi nảy lộc trở lại sau chín năm kháng chiến gian khổ. Rồi giữa những ngày dân tộc sục sôi đánh Mỹ, trâu lại đi vào trang văn Nguyên Ngọc - Nguyễn Trung Thành với hiệu quả thẩm mỹ lớn - hiện thân cho hồn cốt quê hương, “dáng hình xứ sở” - phải yêu thương và bảo vệ: "Trên cánh đồng xưa, cha ta ngày đêm kéo cày gãi đất và con trâu cũng lầm lụi như người…".
Còn nhiều nữa những con trâu thơ hiện lên như tín hiệu nghệ thuật nhấp nháy, đầy suy tư, trăn trở. Thi sĩ Chế Lan Viên mượn cờ lau, mượn con trâu ra trận của Đinh Bộ Lĩnh nghìn năm trước mà khắc khoải: "Lòng ta mục đồng/Cũng đi chăn đấy; Con trâu nghé ọ/ Có cặp sừng bỡ ngỡ/ Chiều buồn không biết cọ vào đâu". Trâu gắn với kỷ niệm một thời mực tím: "Thướt tha áo trắng nói cười/ Để ta thương nhớ một thời áo nâu/ Tóc hoe hoe cháy trên đầu/ Ta và bạn gái cưỡi trâu học bài (Nguyễn Duy). Trâu là “chứng chỉ” để thi nhân bước vào làng thơ: "Chăn trâu đốt lửa trên đồng/ Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều/ Mải mê đuổi một con diều/ Củ khoai nướng để cả chiều thành tro"(Đồng Đức Bốn)…
Ngày nay ở Việt Nam, quá trình Công nghiệp hóa tác động mạnh mẽ đến muôn mặt đời sống đất nước. Tại các vùng nông thôn, ngày càng ít dần đi hình ảnh "Con trâu đi trước, cái cày theo sau" nhưng chắc chắn, con trâu chưa hết vai trò lịch sử - đã, đang và vẫn là một trong thành tố cơ bản của văn hóa Việt Nam.
Nguồn: Internet.
Trong lịch sử can chi đã quen dùng ở phương Đông số thứ tự thứ 2 là Sửu tượng trưng bằng con trâu. Giờ Sửu được tính từ 1 đến 3h đêm, là thời gian yên tĩnh nhất, mọi người ngủ say, thế nhưng con trâu lại thức lặng lẽ nhai lại.
Tháng Sửu là tháng Chạp, là tháng mà mọi người hân hoan đón Tết. Trong 12 con vật thời gian, trâu là con vật to nhất, khỏe nhất. Trâu sớm được thuần hóa, gần gũi với con người, giúp con người trong việc đồng áng nên người nông dân coi trâu như người bạn thân.
Trong ca dao dân ca, trâu được nói đến nhiều vì trâu đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt ở nông thôn. Từ việc ví von về tuổi tác đến việc đồng áng, tình yêu nam nữ... đều có mặt trâu. Trâu gần gũi thân thiết với con người như hình với bóng. Thế nên trong cơ nghiệp nhà nông con trâu được xếp hạng nhất "Con trâu là đầu cơ nghiệp".
Tuổi sửu con trâu kềnh càng,
Cày chưa đúng buổi lại mang cày về.
Trâu thay sức người làm công việc đồng áng nên việc mua sắm trâu là việc hệ trọng. Nhà nghèo thường khó sắm được trâu để làm mùa, phần nhiều là mướn trâu.
Tậu trâu, lấy vợ, cất nhà
Trong ba việc ấy thật là khó thay
Từ buổi đầu lịch sử, khi dân ta biết trồng cây lúa nước con trâu đã là người bạn thân thiết gắn bó với nông dân. Tất cả đều phải cần cù làm lụng, hỗ trợ cho nhau để có miếng ăn.
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công
Bao giờ ngọn lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn
Đôi khi người nông dân cũng tâm tình thì thầm to nhỏ cùng trâu như nói chuyện với một đứa trẻ con.
Nghé ơi ta bảo nghé này
Nghé ăn cho béo nghé cày cho sâu
Ở đời khôn khéo chi đâu
Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần.
Tuy bận rộn vất vả trong những ngày mùa nhưng trâu cũng có ngày thong thả đứng bên bờ ruộng ăn cỏ tươi hoặc nằm trong chuồng nhỏ nhẹ nhấm bó rơm khô. Số phận của con trâu và người nông dân gắn bó đồng cam cộng khổ.
Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu.
Nông dân rất quý con trâu, nó là một phần tài sản của họ. Nó đã được đưa ra so sánh đánh giá sự giàu nghèo.
Thằng bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Và hình ảnh thằng Cuội chăn trâu cũng thật thà đáng thương
Chú Cuội ngồi gốc cây đa
Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cưỡi ngựa đi chơi cầu vồng
Hình ảnh con trâu cũng được dùng để phê phán những kẻ lừa đảo chỉ biết vì quyền lợi cá nhân.
Lái trâu, lái lợn, lái bò
Trong ba anh ấy chớ nghe anh nào
Hoặc tỏ thái độ mỉa mai, châm biếm
Thật thà như thể lái trâu,
Yêu nhau như thể nàng dâu mẹ chồng.
Ai cũng biết buôn bán thì không thể có sự thật thà, quan hệ mẹ chồng, nàng dâu cũng rất phức tạp, khó có sự dung hòa được.
Lại có câu ca dành cho người thích lấy vợ dại, ngoan hiền
Vợ dại thì đẻ con khôn
Trâu chậm lắm thịt, rựa cùn chịu băm
Bởi vậy ta nên trở về với cái vốn có không nên quá mộng tưởng. Cái gì của mình có sẵn quý hơn vì nó là có thực.
Trâu ta ăn cỏ đồng ta
Tuy rằng cỏ cụt nhưng là cỏ thơm
Và rất nhiều người bằng lòng với cuộc sống hiện tại, cho như thế là sung sướng hơn người.
Ai bảo chăn trâu là khổ
Không, chăn trâu sướng lắm chứ?
Ngồi lưng trâu ta hát nghêu ngao...
Con trâu cũng là đề tài để người ta trêu chọc nhau một cách tình tứ trong những lúc lao động để quên đi nỗi mệt nhọc, vất vả.
Trâu kia kén cỏ bờ ao
Anh kia không vợ đời nào có con
Người ta có trước có sau
Thân anh không vợ như cau không buồng
Cau không buồng như tuồng cau đực
Trai không vợ cực lắm anh ơi
Người ta đi đón, về đôi
Thân anh đi lẻ, về loi một mình
Hoặc để gợi chuyện làm quen nhau:
Hỡi cô cắt cỏ bên đồng
Nuôi trâu cho béo làm giàu cho cha
Giàu thì chia bảy chia ba
Thân em là gái được là bao nhiêu?
Các cô gái cũng hóm hĩnh, đáo để không kém
Cưới em tám vạn trâu bò
Bảy vạn dê lợn, chín vò rượu tăm
Đến khi có vợ rồi nên một lòng một dạ không nên bắt chước những người đi trước năm thê bảy thiếp để rồi gặp phải cảnh.
Ba vợ bảy nàng hầu
Đêm nằm chuồng trâu, gối đầu bằng chổi.
Trâu anh con cưỡi con dòng
Có con đi trước lòng thòng theo sau.
Và đôi khi là những hình ảnh ẩn dụ về những ngang trái mà con trâu phải gánh chịu.
Con trâu có một hàm răng
Ăn cỏ đồng bằng uống nước bờ ao
Thời sống mày đã thương tao
Bây giờ mày chết cầm dao xẻ mày
Thịt mày tao nấu linh đình
Da mày bịt trống tụng kinh trong chùa
Sừng mày tao tiện con cờ
Làm dao, cán mác, lược dày, lược thưa…
Thời gian dần qua đi. Theo đó, hình ảnh mục đồng vắt vẻo trên lưng trâu, hát ngêu ngao những bài đồng dao cũng đã dần mất đi. Thế nhưng hình ảnh làng quê, đồng ruộng, cây lúa, con trâu vẫn thấm sâu vào tâm hồn người dân Việt.
==================
Con trâu trong văn hoá Việt Nam
Trong mười hai con giáp, trâu là loài vật thiết thân với nông dân và nông nghiệp, nông thôn Việt Nam suốt trường kỳ lịch sử. Chẳng rõ con trâu có ở trái đất từ bao giờ, chỉ biết các nhà khoa học đã tìm thấy hóa thạch của loài vật này có niên đại cách ngày nay hàng chục vạn năm trên các hang động ở miền Bắc nước ta. Trong Kho tàng tục ngữ người Việt có hơn 100 đơn vị câu nói về loài vật này. Quan trọng hơn, từ những tục ngữ trâu ấy là biết bao lắng đọng, kết tinh về đường ăn nét ở, thế thái nhân tình nhẹ nhàng, sâu sắc mà thấm thía.
Với cư dân nông nghiệp xưa, con trâu là cả một khối tài sản vật chất khổng lồ - đầu cơ nghiệp. Không gì quý hóa và ý nghĩa như con vật này đối với nông dân. Thậm chí, ngay cả những người thuộc tầng lớp trên trong xã hội cũng xem trâu là “thước đo” của sự giàu sang sung túc. Ai quên được hình ảnh gã phú ông giàu nứt đố đổ vách khoe mình có ba bò chín trâu trong bài ca dao với thằng Bờm.
Bên cạnh cưới vợ, làm nhà thì tậu trâu rõ ràng là việc lớn đối với mỗi gia đình. “Ruộng sâu, trâu nái không bằng con gái đầu lòng” tuy nói về hạnh phúc của các cặp vợ chồng trẻ lần đầu được làm cha làm mẹ nhưng gián tiếp cho chúng ta biết quan niệm về sự giàu có. Chính vì vậy, người xưa nhắc nhở: “Sai con toán, bán con trâu” - làm ăn, buôn bán không cẩn thận phải bán cả cơ nghiệp, chẳng phải chuyện đùa.
“Trâu chết để da, người chết để tiếng” là lời răn dạy nhẹ nhàng của người xưa đến lúc nhắm mắt xuôi tay vẫn nên giữ gìn lấy cốt cách, phẩm hạnh. "Trâu, dê lúc chết tế ruồi/ Sao bằng lúc sống ngọt bùi là hơn" để lại bài học về cách ứng xử sao cho hài hòa, êm đẹp."Trâu bò được ngày phá đỗ/Con cháu được ngày giỗ ông" chứa đựng niềm hạnh phúc “hiếm hoi” no đủ khi con cháu “tưởng nhớ” ông bà. Quan hệ mua bán sòng phẳng có: “Trâu trao trạc (thừng), bạc trao tay/Trâu buộc thì ghét trâu ăn/Quan võ thì ghét quan văn dài quần” nói về sự ganh ghét nhỏ nhen, đố kỵ tầm thường thời nào cũng tồn tại.
Trâu bò đánh nhau ruồi muỗi chết chính là nỗi oan gia mà người dân thấp cổ bé họng thường bị cuốn theo. Những ai bị nhiều tầng bóc lột có thể thấy mình qua hình ảnh: "Voi đạp cũng chết, trâu đạp cũng chết/Trâu chậm uống nước đục hay Trâu chậm uống nước dơ/Trâu ngơ ăn cỏ héo là “hiện thực” không mấy dễ chịu luôn diễn ra trong cuộc chiến giành sự sống giữa đời thường. "Trâu đẻ tháng mười, người đẻ tháng sáu" đem lại niềm vui không trọn vẹn, chẳng đúng lúc (tháng mười và tháng sáu là hai tháng bận rộn gặt hái nhất của nhà nông). Kẻ hợm mình về học vấn có thể “soi gương” qua câu thành ngữ: "Trâu kén cỏ trâu gầy, trò kén thầy trò dốt. Với hình ảnh “trâu” và “cỏ”, người xưa bộc lộ quan niệm hôn nhân trong nội bộ làng xã - o bế, khép kín (đến nay không còn phù hợp): "Trâu ta ăn cỏ đồng ta/Tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ thơm; Trâu đồng nào ăn cỏ đồng nấy… Những cuộc hôn nhân kiểu này, sự “chủ động” chỉ có ở một phía bởi suy nghĩ "trâu dắt đến cọc, cọc chẳng dắt đến trâu". Người mải mê kén chọn nhân duyên hẳn có lúc giật mình: "trâu quá sá, mạ quá thì". Người tuổi cầm tinh con trâu, thường tự cho mình vất vả, phải "kéo cày trả nợ"…
Cũng không phải ngẫu nhiên, hình ảnh “trâu” luôn hiện lên trong sự đối sánh với “bò”: chúng tương đồng về vóc dáng, khối lượng công việc phải đảm nhiệm nhưng sức lực lại nhiều khác biệt: “Yếu trâu hơn khỏe bò/Trâu ho hơn bò rống”. Và dân gian có cả một núi tri thức để chọn giống, xem tướng trâu bò. “Trâu cổ cò, bò cổ giải” là cách tìm trâu bò khỏe: trâu cổ tròn, dài; bò cổ ngắn, có ngấn (như cổ con giải). Trâu dắt ra (đồng), bò dắt vào (chuồng) cho kinh nghiệm chọn trâu bò siêng năng. “Trâu to ngà (sừng) càng già đường kéo/Trâu khỏe chẳng lọ cày trưa/Mạ già ruộng ngấu không lo bạn điền”. Trẻ mục đồng phải thuộc bài học “vỡ lòng”: trâu dong, bò dắt (vì bò hay đá hậu). “Trâu hoa tai, bò gai sừng/Trâu mõm đen, bò lưỡi trắng” chỉ loại trâu bò yếu, hết sức cày (tai nhiều lông, sừng xù xì) hoặc không ra gì. Tệ hơn nữa là “Trâu nghiến hàm, bò bạch thiệt” (lưỡi trắng) hay “Trâu trắng đi đâu, mất mùa đến đấy”, theo quan niệm duy tâm, trâu bò loại này thường báo điềm không hay cho gia chủ.
Bên cạnh tục ngữ thì ca dao người Việt xưa cũng có những dòng thật "xứng đáng” về trâu. Này là lời nhắn gửi thiết tha, ân tình sâu nặng của nhà nông với bạn “đồng hành” chung thủy: “Trâu ơi ta bảo trâu này/Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta/ Cấy cày vốn nghiệp nông gia/ Ta đây, trâu đấy ai mà quản công/ Bao giờ cây lúa còn bông/ Thời còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn…”. Hay bức tranh quê đặc sắc, hàm chứa những giá trị văn hóa vĩnh hằng: “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu/Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”. Còn có thể nói gì hơn về câu ca dao ấy. Tuy không đến độ “Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày” nhưng mọi người đều cảm nhận được đằng sau vẻ đẹp lao động thanh bình, hạnh phúc kia là bao cực nhọc, vất vả. Và điều đáng nói hơn, con trâu hiện lên “bình đẳng” với người như một chủ thể lao động không thể bỏ sót.
Từ dòng chảy văn hóa dân gian, hình tượng con trâu còn đường hoàng đi vào văn chương bác học. Thơ Tam nguyên Yên Đổ có:“Trâu già gốc bụi phì hơi nắng/Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người”; thơ Bà Huyện Thanh Quan lúc “chiều hôm nhớ nhà” còn đây hình ảnh: “Gõ sừng mục tử lại cô thôn”. Cũng chính người nữ sĩ tài danh đất Bắc ấy vì quá “nể nang” từng “vượt rào” mà “bút phê” vào đơn xin thịt trâu của một cống sinh (sau khi thi đỗ) rằng: “Người ta thì chẳng được đâu/Ừ thì ông Cống làm trâu thì làm” bởi xưa mổ trâu là việc hệ trọng, có thể gây hậu quả xấu đến sản xuất nông nghiệp.
Trong đời sống nghệ thuật truyền thống, hơn 3.000 năm trước, tượng trâu nghệ thuật bằng đất nung từng xuất hiện trong các di chỉ văn hóa Đồng Đậu. Trâu “có mặt” trong điêu khắc gỗ đình làng thế kỷ 17 - 18; trong bức tranh tứ bình Ngư - Tiều - Canh - Mục đặc sắc với hình em bé ngồi vắt vẻo trên lưng trâu thổi sáo. Chúng ta còn thấy trâu được chạm khắc trên bề mặt trống đồng (trống Vĩnh Hùng). Ngoài ra, trâu là vật hiến sinh quen thuộc trong nghi lễ nông nghiệp; có cả một Lễ hội đâm trâu tồn tại đến ngày nay ở vùng đất nóc nhà Đông Dương (Tây Nguyên) liên quan tới phong tục - tập quán, tín ngưỡng - tôn giáo của đồng bào người Thượng. Tại Đồ Sơn (Hải Phòng), hội chọi trâu đã trở thành điểm sáng văn hóa có sức hấp dẫn lớn với du khách gần xa: “Dù ai buôn đâu bán đâu/ Mồng mười tháng tám chọi trâu thì về/ Dù ai buôn bán trăm nghề/ Mồng mười tháng tám nhớ về chọi trâu”.
Theo cố giáo sư Trần Quốc Vượng (1934 - 2005), chọi trâu là tàn dư xa xôi của lễ hội thờ Trăng (sừng trâu gợi hình ảnh trăng lưỡi liềm), biểu tượng của xung lực vũ trụ. Chọi trâu hàng năm là để tái vận hành và tiếp sức sinh sôi nguồn xung lực, sinh lực của Trời - Đất - Con người.
Thời hiện đại, trâu không hề vắng bóng trong các tác phẩm văn học nghệ thuật. Lúc bị giam cầm trong nhà lao Tưởng Giới Thạch, giải tới giải lui suốt mười ba huyện ở Quảng Tây, Hồ Chủ tịch không khỏi ngậm ngùi: "Trên đời ngàn vạn điều cay đắng/Cay đắng chi bằng mất tự do/ Mỗi việc một lời không tự chủ/ Để cho người dắt tựa trâu bò". Bị đày ải trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt “Gió sắc tựa gươm mài đá núi/ Rét như dùi nhọn chích cành cây”, Người vẫn thu vào tầm mắt cảnh thôn quê bình dị: "Chùa xa chuông giục người nhanh bước/ trẻ dắt trâu về tiếng sáo bay".
Hai nhà văn Trần Tiêu, Nguyên Văn Bổng dù mang nhân sinh quan, thế giới quan khác nhau, có sự cách biệt của hai thời đại, hai thế giới nghệ thuật (trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945), đều có tiểu thuyết cùng tên Con trâu. Đến hôm nay, dẫu hai tác phẩm này đã hết sứ mệnh lịch sử, lùi vào quá vãng thì người ta vẫn không thể phủ nhận: con trâu từng là nguồn cảm hứng sáng tạo lớn đối với nhiều thế hệ cầm bút. Cũng không thể không nhắc tới ở đây những vần thơ có sức mạnh đi qua thời gian: "Ai bảo chăn trâu là khổ?/ Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao" (Giang Nam); "Mình về ta gửi về quê/ Thuyền nâu, trâu mộng với bè nứa mai… Trâu về xanh lại Thái Bình/ Nứa mai gài chặt mối tình ngược xuôi" (Tố Hữu). Quả thực, “chính con trâu tự nó đạt tới biểu tượng của nền văn hóa, đã giúp cho nhà văn, nhà thơ biết thi vị hóa, đem lại chất lãng mạn cho văn chương” (PGS. Đào Thản).
Con trâu từ chỗ là tư liệu sản xuất nông nghiệp hiện thực vụt biến thành biểu tượng của sự sống đâm chồi nảy lộc trở lại sau chín năm kháng chiến gian khổ. Rồi giữa những ngày dân tộc sục sôi đánh Mỹ, trâu lại đi vào trang văn Nguyên Ngọc - Nguyễn Trung Thành với hiệu quả thẩm mỹ lớn - hiện thân cho hồn cốt quê hương, “dáng hình xứ sở” - phải yêu thương và bảo vệ: "Trên cánh đồng xưa, cha ta ngày đêm kéo cày gãi đất và con trâu cũng lầm lụi như người…".
Còn nhiều nữa những con trâu thơ hiện lên như tín hiệu nghệ thuật nhấp nháy, đầy suy tư, trăn trở. Thi sĩ Chế Lan Viên mượn cờ lau, mượn con trâu ra trận của Đinh Bộ Lĩnh nghìn năm trước mà khắc khoải: "Lòng ta mục đồng/Cũng đi chăn đấy; Con trâu nghé ọ/ Có cặp sừng bỡ ngỡ/ Chiều buồn không biết cọ vào đâu". Trâu gắn với kỷ niệm một thời mực tím: "Thướt tha áo trắng nói cười/ Để ta thương nhớ một thời áo nâu/ Tóc hoe hoe cháy trên đầu/ Ta và bạn gái cưỡi trâu học bài (Nguyễn Duy). Trâu là “chứng chỉ” để thi nhân bước vào làng thơ: "Chăn trâu đốt lửa trên đồng/ Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều/ Mải mê đuổi một con diều/ Củ khoai nướng để cả chiều thành tro"(Đồng Đức Bốn)…
Ngày nay ở Việt Nam, quá trình Công nghiệp hóa tác động mạnh mẽ đến muôn mặt đời sống đất nước. Tại các vùng nông thôn, ngày càng ít dần đi hình ảnh "Con trâu đi trước, cái cày theo sau" nhưng chắc chắn, con trâu chưa hết vai trò lịch sử - đã, đang và vẫn là một trong thành tố cơ bản của văn hóa Việt Nam.
Nguồn: Internet.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét