Chủ Nhật, 26 tháng 9, 2010
Tranh hàng trống
Xưa kia dòng tranh này sản xuất và bày bán tại các phố Hàng Trống, Hàng Nón, Hàng Hòm và Hàng Quạt thuộc tổng Tiêu Túc (sau đổi là Thuận Mỹ), huyện Thọ Xương (nay là quận Hoàn Kiếm, Hà Nội), nhưng chủ yếu là ở Hàng Trống (xưa là thôn Tự Tháp). Phường phố này đã từng có tiếng về các ngành nghề thủ công như tranh dân gian, trống tế trống hội, hòm tráp sơn ta, hàng thêu, quạt, nón, cờ phướn, võng lọng v.v, sầm uất quanh năm.
Cùng với các hộ dân cư bản địa lâu đời, cũng có nhiều thợ vẽ và thợ khắc tài hoa từ nơi khác đến đây làm thuê cho các chủ xưởng in tranh. Do buôn bán cạnh tranh, thường in kèm tên hiệu như Thanh An, Vĩnh Lợi, Phúc Bình...
Khác với tranh Đông Hồ, kỹ thuật tranh Hàng Trống kết hợp đường nét in đen từ bản khắc gỗ, với việc tô màu phẩm bằng tay, dùng bút mềm quét phẩm nước, luôn luôn tạo được những chuyển sắc đậm nhạt tinh tế. Nhờ vậy, màu sắc rất uyển chuyển, đáp ứng đòi hỏi của khách mua tranh nơi kẻ chợ.
Tranh Hàng Trống in trên giấy dó hay giấy báo khổ rộng. Những bộ tứ bình khổ to thường được bồi trên giấy dầy, hai đầu trên dưới lồng xuốt trúc để tiện treo.
Cùng với các đề tài phản ánh sinh hoạt thường ngày hay minh họa cổ tích, tranh Hàng Trống nổi trội về thể loại tranh thờ, ảnh hưởng Phật giáo và Đạo giáo, với hình tượng tương đối giản dị mà thể hiện công phu, không bao giờ thiếu sắc thái uy vệ về ý nghĩa.
Việc xuất hiện những tranh Hàng Trống như "Gà đàn", "Tướng Trấn môn" ("Canh cửa") tại kinh đô, từ nội phủ cung đình đến nhà thường dân, từng được Hoàng Sĩ Khải, một nhà thơ làm quan thời Mạc (cuối tk.16) nhắc tới. Như vậy, tranh Hàng Trống có lẽ ra đời cùng thời với tranh Đông Hồ, vốn được dòng họ Nguyễn Đăng sản xuất truyền tới hai mươi đời, tức khoảng năm trăm năm.
Trong số bản khắc tranh Hàng Trống còn giữ lại được, có mấy tấm đặc biệt giá trị, lưu tại Bảo tàng Lịch sử ở Hà Nội dưới ký hiệu I.5484 a.b.c. Những tấm gỗ thị dầy dặn này được khắc cả hai mặt, theo đề tài rút từ kinh nhà Phật hay cổ tích Việt Nam, Trung Hoa, kèm cả tuổi tranh "Quý Mùi lục nguyệt khởi Minh Mệnh tứ niên", tức là 1823 dương lịch. Những tấm ván này được khắc cách đây đã ngót hai trăm năm, nên ta có cơ sở tin rằng dòng trang Hàng Trống xuất hiện còn sớm hơn thế khá nhiều.
MộT DòNG TRANH DÂN GIAN...
Trong ba dòng tranh dân gian tiêu biểu: tranh điệp Đông Hồ (Bắc Ninh), tranh đỏ Kim Hoàng (Hà Tây) và tranh Hàng Trống thì Hàng Trống là trung tâm làm tranh lớn thứ hai, chỉ sau Đông Hồ. Gọi là tranh Hàng Trống bởi "lò" tranh quy tụ ở phố Hàng Trống, Hà Nội. Từ đây "bắt lửa" sang Hàng Nón, Hàng Hòm, Hàng Quạt. Thế nh-ng, d-ờng nh- thời sầm uất nhất đã xa. Nay, nơi đây chỉ còn sót lại duy nhất nghệ nhân Lê Đình Nghiên ở phố Cửa Đông, Hà Nội.
Muốn tìm lại tranh Hàng Trống phải đến chốn linh thiêng: đền, miếu, điện thờ, hoặc lục tìm trong các bộ s-u tập của t- nhân và các viện bảo tàng Việt Nam cũng nh- ở nhiều n-ớc. Bức tranh Ngũ hổ đ-ợc coi là lớn và hầu nh- còn giữ đ-ợc vẻ đẹp thuần khiết của phong cách tranh Hàng Trống, hiện còn ở Chùa làng Kim Liên.
Tìm lại bóng dáng tranh x-a
Cả ba dòng tranh dân gian đều sản xuất thủ công, kỹ nghệ cha truyền con nối. Tranh cỡ nhỏ, chủ đề là cuộc sống đời th-ờng, phong tục tập quán: Hứng dừa, Đánh ghen, Tố nữ, Thả diều, Thạch Sanh, Sơn Tinh- Thuỷ Tinh... ở dòng tranh Đông Hồ. Tranh cỡ to lại thiên về thế giới thần bí, sắc màu tôn giáo chủ yếu là tranh thờ: Bạch hổ, Hắc hổ, Ngũ hổ, Đức thánh trần, Bà chúa mẫu...trong tranh Hàng Trống.
Phải chăng nguyên liệu, phong thủy và tính cách con ng-ời của mỗi vùng quyết định tính chất, phong cách của sản phẩm nơi ấy? Một nhà nghiên cứu nhận xét ng-ời làm tranh Hàng Trống có phong cách, quan niệm và ph-ơng pháp khác hẳn tranh Đông Hồ và Kim Hoàng. Tranh Đông Hồ dập theo ba công đoạn: vẽ mẫu, khắc ván và in. In viền nét và in màu đều dùng bản khắc gỗ. Riêng tranh đỏ Kim Hoàng thêm một khâu thứ năm: in viền nét đen một lần nữa, thật đậm và rõ.
Nghệ nhân Lê Đình Nghiên cho biết, tranh Hàng Trống chỉ in nét đen khuôn hình bằng ván khắc, các khâu còn lại đều vờn vẽ bằng tay. Tr-ớc hết, nghệ nhân đặt ngửa ván khắc, dùng bàn chải quét đều mực tàu lên mặt ván. Đặt tờ giấy lên mặt ván, dùng xơ m-ớp xoa đều mặt sau tờ giấy. Bóc giấy ra thì đ-ợc tờ tranh ch-a tô màu. Khi mực in nét khô, dùng bút lông vẽ lần l-ợt các mảng màu phẳng lên tranh theo bản mẫu. Theo nét vẽ đen viền, ng-ời ta vờn thêm một n-ớc màu nhạt, làm nhoà bớt nét, gọi là cản, khiến khối hình trở lên l-u loát, mặt tranh êm dịu nh- tranh thuỷ mặc.
Trong tranh Hàng Trống, chỉ có khâu in nét hình là làm hàng loạt. Còn khâu tô vẽ màu thì làm từng tranh, có khi sáng tạo thêm so với mẫu, tuỳ theo cây bút và khả năng của ng-ời vờn tranh. Một số nghệ nhân còn vẽ thẳng khuôn hình và màu sắc. In nét cong, họ dùng bút lông chấm màu để tô lên từng mảng đậm nhạt.
Nhiều ng-ời không dùng đến bản khắc gỗ. Theo thói quen nhà nghề, cầm bút vẽ trực tiếp đ-ờng nét lên giấy, rồi tự tô màu cho tới khi bức tranh hoàn chỉnh. Thậm chí, thợ tranh dòng Hàng Trống đôi khi còn vẽ các bức độc bản theo yêu cầu của khách hàng giàu có. Nét riêng của tranh Hàng Trống chính là uyển chuyển hơn, màu sắc dịu hơn. Khách mua tranh Hàng Trống cũng khác. Họ là thị dân, các ph-ờng, đền, đình.
Khơi lại một dòng tranh
Ông Nghiên tuổi Dần, đời thứ ba của một gia đình vốn có truyền thống làm tranh ở làng Bình Vọng, Th-ờng Tín (Hà Tây), nh-ng lập nghiệp ở Hàng Trống. Cụ Lê Xuân Quế, ông nội nghệ nhân khi x-a đã làm nghề tranh. Ông bố cũng tiếp nối nghề. Đến đời ông Nghiên, nhà có bảy anh chị em, độc mình ông theo đ-ợc nghề. "Nhà n-ớc cũng nhìn xa trông rộng. Năm 1972, Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam mời tôi tới chỉ độc một yêu cầu: phục chế bức tranh Hàng Trống l-u trữ tại bảo tàng".
Một mình ông Nghiên sức mấy khơi lại cả một dòng tranh? "Tranh Hàng Trống khổ quá lớn nuốt nhiều chỗ mà lại rẻ nên ít ng-ời buôn tranh, nói gì tới ng-ời s-u tầm. Còn nữa, làm ra tranh bây giờ đâu còn có chợ tranh mà bán nh- tr-ớc. Gửi bán khó nên ai đặt thì làm" ông Nghiên nói. "Nghề nay có tháng đói dài, có tháng làm không hết việc. Nghề thì quý nh-ng công sá một trăm nghìn bạc một bức nên sức nghệ thuật còn rẻ rúm quá"- ông cho biết thêm.
Tr-ớc kia, Xunhasaba tìm đầu ra ở các n-ớc Đông Âu, nhận về nhiều hợp đồng. Ng-ời làm tranh hứng khởi, trau chuốt nghề và đ-ợc dịp truyền nghề. Ông Nghiên có hai con trai nh-ng theo ông "ch-a có cậu nào thích nghề, có lẽ vì kinh tế ". Nay thì số phận tranh dân gian, số phận của các làng nghề truyền thống, nói rộng ra công nghệ truyền thống vẫn đang bị kinh tế thị tr-ờng thách thức...
Làm thế nào để tranh Hàng Trống không chỉ có vị trí trong bảo tàng, không chỉ đ-ợc giới nghiên cứu mỹ thuật và nghệ sỹ đánh giá cao, mà ng-ời bình dân cũng đ-ợc th-ởng thức, tham gia gìn giữ cho con cháu? Không thể đợi thẩm mỹ của công chúng lên theo mức sống... Nhiều ng-ời nói nên mở lớp truyền nghề duy trì mạch nguồn cho tranh Hàng Trống ở ngay trong Bảo tàng Mỹ thuật. Trời xanh, giấy trắng, mực đen vẫn đổ bóng. Và Lê Đình Nghiên vẫn đang tô tranh Lý Ng- Vọng Nguyệt...
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Chủ Nhật, 26 tháng 9, 2010
Tranh hàng trống
Xưa kia dòng tranh này sản xuất và bày bán tại các phố Hàng Trống, Hàng Nón, Hàng Hòm và Hàng Quạt thuộc tổng Tiêu Túc (sau đổi là Thuận Mỹ), huyện Thọ Xương (nay là quận Hoàn Kiếm, Hà Nội), nhưng chủ yếu là ở Hàng Trống (xưa là thôn Tự Tháp). Phường phố này đã từng có tiếng về các ngành nghề thủ công như tranh dân gian, trống tế trống hội, hòm tráp sơn ta, hàng thêu, quạt, nón, cờ phướn, võng lọng v.v, sầm uất quanh năm.
Cùng với các hộ dân cư bản địa lâu đời, cũng có nhiều thợ vẽ và thợ khắc tài hoa từ nơi khác đến đây làm thuê cho các chủ xưởng in tranh. Do buôn bán cạnh tranh, thường in kèm tên hiệu như Thanh An, Vĩnh Lợi, Phúc Bình...
Khác với tranh Đông Hồ, kỹ thuật tranh Hàng Trống kết hợp đường nét in đen từ bản khắc gỗ, với việc tô màu phẩm bằng tay, dùng bút mềm quét phẩm nước, luôn luôn tạo được những chuyển sắc đậm nhạt tinh tế. Nhờ vậy, màu sắc rất uyển chuyển, đáp ứng đòi hỏi của khách mua tranh nơi kẻ chợ.
Tranh Hàng Trống in trên giấy dó hay giấy báo khổ rộng. Những bộ tứ bình khổ to thường được bồi trên giấy dầy, hai đầu trên dưới lồng xuốt trúc để tiện treo.
Cùng với các đề tài phản ánh sinh hoạt thường ngày hay minh họa cổ tích, tranh Hàng Trống nổi trội về thể loại tranh thờ, ảnh hưởng Phật giáo và Đạo giáo, với hình tượng tương đối giản dị mà thể hiện công phu, không bao giờ thiếu sắc thái uy vệ về ý nghĩa.
Việc xuất hiện những tranh Hàng Trống như "Gà đàn", "Tướng Trấn môn" ("Canh cửa") tại kinh đô, từ nội phủ cung đình đến nhà thường dân, từng được Hoàng Sĩ Khải, một nhà thơ làm quan thời Mạc (cuối tk.16) nhắc tới. Như vậy, tranh Hàng Trống có lẽ ra đời cùng thời với tranh Đông Hồ, vốn được dòng họ Nguyễn Đăng sản xuất truyền tới hai mươi đời, tức khoảng năm trăm năm.
Trong số bản khắc tranh Hàng Trống còn giữ lại được, có mấy tấm đặc biệt giá trị, lưu tại Bảo tàng Lịch sử ở Hà Nội dưới ký hiệu I.5484 a.b.c. Những tấm gỗ thị dầy dặn này được khắc cả hai mặt, theo đề tài rút từ kinh nhà Phật hay cổ tích Việt Nam, Trung Hoa, kèm cả tuổi tranh "Quý Mùi lục nguyệt khởi Minh Mệnh tứ niên", tức là 1823 dương lịch. Những tấm ván này được khắc cách đây đã ngót hai trăm năm, nên ta có cơ sở tin rằng dòng trang Hàng Trống xuất hiện còn sớm hơn thế khá nhiều.
MộT DòNG TRANH DÂN GIAN...
Trong ba dòng tranh dân gian tiêu biểu: tranh điệp Đông Hồ (Bắc Ninh), tranh đỏ Kim Hoàng (Hà Tây) và tranh Hàng Trống thì Hàng Trống là trung tâm làm tranh lớn thứ hai, chỉ sau Đông Hồ. Gọi là tranh Hàng Trống bởi "lò" tranh quy tụ ở phố Hàng Trống, Hà Nội. Từ đây "bắt lửa" sang Hàng Nón, Hàng Hòm, Hàng Quạt. Thế nh-ng, d-ờng nh- thời sầm uất nhất đã xa. Nay, nơi đây chỉ còn sót lại duy nhất nghệ nhân Lê Đình Nghiên ở phố Cửa Đông, Hà Nội.
Muốn tìm lại tranh Hàng Trống phải đến chốn linh thiêng: đền, miếu, điện thờ, hoặc lục tìm trong các bộ s-u tập của t- nhân và các viện bảo tàng Việt Nam cũng nh- ở nhiều n-ớc. Bức tranh Ngũ hổ đ-ợc coi là lớn và hầu nh- còn giữ đ-ợc vẻ đẹp thuần khiết của phong cách tranh Hàng Trống, hiện còn ở Chùa làng Kim Liên.
Tìm lại bóng dáng tranh x-a
Cả ba dòng tranh dân gian đều sản xuất thủ công, kỹ nghệ cha truyền con nối. Tranh cỡ nhỏ, chủ đề là cuộc sống đời th-ờng, phong tục tập quán: Hứng dừa, Đánh ghen, Tố nữ, Thả diều, Thạch Sanh, Sơn Tinh- Thuỷ Tinh... ở dòng tranh Đông Hồ. Tranh cỡ to lại thiên về thế giới thần bí, sắc màu tôn giáo chủ yếu là tranh thờ: Bạch hổ, Hắc hổ, Ngũ hổ, Đức thánh trần, Bà chúa mẫu...trong tranh Hàng Trống.
Phải chăng nguyên liệu, phong thủy và tính cách con ng-ời của mỗi vùng quyết định tính chất, phong cách của sản phẩm nơi ấy? Một nhà nghiên cứu nhận xét ng-ời làm tranh Hàng Trống có phong cách, quan niệm và ph-ơng pháp khác hẳn tranh Đông Hồ và Kim Hoàng. Tranh Đông Hồ dập theo ba công đoạn: vẽ mẫu, khắc ván và in. In viền nét và in màu đều dùng bản khắc gỗ. Riêng tranh đỏ Kim Hoàng thêm một khâu thứ năm: in viền nét đen một lần nữa, thật đậm và rõ.
Nghệ nhân Lê Đình Nghiên cho biết, tranh Hàng Trống chỉ in nét đen khuôn hình bằng ván khắc, các khâu còn lại đều vờn vẽ bằng tay. Tr-ớc hết, nghệ nhân đặt ngửa ván khắc, dùng bàn chải quét đều mực tàu lên mặt ván. Đặt tờ giấy lên mặt ván, dùng xơ m-ớp xoa đều mặt sau tờ giấy. Bóc giấy ra thì đ-ợc tờ tranh ch-a tô màu. Khi mực in nét khô, dùng bút lông vẽ lần l-ợt các mảng màu phẳng lên tranh theo bản mẫu. Theo nét vẽ đen viền, ng-ời ta vờn thêm một n-ớc màu nhạt, làm nhoà bớt nét, gọi là cản, khiến khối hình trở lên l-u loát, mặt tranh êm dịu nh- tranh thuỷ mặc.
Trong tranh Hàng Trống, chỉ có khâu in nét hình là làm hàng loạt. Còn khâu tô vẽ màu thì làm từng tranh, có khi sáng tạo thêm so với mẫu, tuỳ theo cây bút và khả năng của ng-ời vờn tranh. Một số nghệ nhân còn vẽ thẳng khuôn hình và màu sắc. In nét cong, họ dùng bút lông chấm màu để tô lên từng mảng đậm nhạt.
Nhiều ng-ời không dùng đến bản khắc gỗ. Theo thói quen nhà nghề, cầm bút vẽ trực tiếp đ-ờng nét lên giấy, rồi tự tô màu cho tới khi bức tranh hoàn chỉnh. Thậm chí, thợ tranh dòng Hàng Trống đôi khi còn vẽ các bức độc bản theo yêu cầu của khách hàng giàu có. Nét riêng của tranh Hàng Trống chính là uyển chuyển hơn, màu sắc dịu hơn. Khách mua tranh Hàng Trống cũng khác. Họ là thị dân, các ph-ờng, đền, đình.
Khơi lại một dòng tranh
Ông Nghiên tuổi Dần, đời thứ ba của một gia đình vốn có truyền thống làm tranh ở làng Bình Vọng, Th-ờng Tín (Hà Tây), nh-ng lập nghiệp ở Hàng Trống. Cụ Lê Xuân Quế, ông nội nghệ nhân khi x-a đã làm nghề tranh. Ông bố cũng tiếp nối nghề. Đến đời ông Nghiên, nhà có bảy anh chị em, độc mình ông theo đ-ợc nghề. "Nhà n-ớc cũng nhìn xa trông rộng. Năm 1972, Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam mời tôi tới chỉ độc một yêu cầu: phục chế bức tranh Hàng Trống l-u trữ tại bảo tàng".
Một mình ông Nghiên sức mấy khơi lại cả một dòng tranh? "Tranh Hàng Trống khổ quá lớn nuốt nhiều chỗ mà lại rẻ nên ít ng-ời buôn tranh, nói gì tới ng-ời s-u tầm. Còn nữa, làm ra tranh bây giờ đâu còn có chợ tranh mà bán nh- tr-ớc. Gửi bán khó nên ai đặt thì làm" ông Nghiên nói. "Nghề nay có tháng đói dài, có tháng làm không hết việc. Nghề thì quý nh-ng công sá một trăm nghìn bạc một bức nên sức nghệ thuật còn rẻ rúm quá"- ông cho biết thêm.
Tr-ớc kia, Xunhasaba tìm đầu ra ở các n-ớc Đông Âu, nhận về nhiều hợp đồng. Ng-ời làm tranh hứng khởi, trau chuốt nghề và đ-ợc dịp truyền nghề. Ông Nghiên có hai con trai nh-ng theo ông "ch-a có cậu nào thích nghề, có lẽ vì kinh tế ". Nay thì số phận tranh dân gian, số phận của các làng nghề truyền thống, nói rộng ra công nghệ truyền thống vẫn đang bị kinh tế thị tr-ờng thách thức...
Làm thế nào để tranh Hàng Trống không chỉ có vị trí trong bảo tàng, không chỉ đ-ợc giới nghiên cứu mỹ thuật và nghệ sỹ đánh giá cao, mà ng-ời bình dân cũng đ-ợc th-ởng thức, tham gia gìn giữ cho con cháu? Không thể đợi thẩm mỹ của công chúng lên theo mức sống... Nhiều ng-ời nói nên mở lớp truyền nghề duy trì mạch nguồn cho tranh Hàng Trống ở ngay trong Bảo tàng Mỹ thuật. Trời xanh, giấy trắng, mực đen vẫn đổ bóng. Và Lê Đình Nghiên vẫn đang tô tranh Lý Ng- Vọng Nguyệt...
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét