Thứ Tư, 26 tháng 12, 2012

Mùa Vu Lan -TG: Lê Anh Minh


00:49 31 thg 8 2012
Khoảng rằm tháng 7, một mùa lễ Phật giáo được tổ chức khắp Đông Nam Á. Ở Nhật gọi là lễ Obon お盆. Chữ Bon này là tức là Urabon, do Nhật phiên âm từ tiếng Phạn Ullambana; Trung Quốc phiên âm từ Phạn ra Hán là Vu Lan Bồn 盂蘭盆 hoÔ Lam Bà Na烏藍婆拏; Vit Nam gi tt là Vu Lan 盂蘭.
Nhiu người hiểu chữ Bồn theo âm Hán Việt, nghĩa là cái bồn, cái chậu, mà không ngờ đây chỉ là mượn âm Hán để phiên âm tiếng Phạn (Sanskrit) chứ nó không liên quan gì đến ý nghĩa nói trên. Sự ngộ nhận của nhiều người là vì mùa lễ này tín đồ cúng dường Tam Bảo để cầu nguyện vong linh thân nhân được siêu thoát. Cái bồn là vật đựng thức ăn cúng dường. Nếu hiểu trại như vậy (Vu: cái bát; Bồn: cái chậu) thì không ai giải thích được chữ Lan nghĩa là gì trong ngữ cảnh này (mặc dù nghĩa thông thường là hoa lan). Do đó, để hiểu đúng thuật ngữ này ta phải quay về gốc tiếng Phạn của nó. Ullambana có nghĩa là treo ngược, ngụ ý sự thống khổ của các vong linh đói khát bị đọa đầy (bị treo ngược) nơi địa ngục.
Sự cúng dường Tam Bảo đây cũng là nhân dịp kết thúc mùa An cư安居 (Vārşika), tức là ba tháng mùa mưa từ rằm tháng 4 đến rằm tháng 7 để tăng ni tu học, niệm kinh và tham thiền liên tục trong tự viện, không bước ra ngoài. Tại Việt nam, Phật giáo Bắc Tông tổ chức mùa An cư từ rằm tháng 4 đến rằm tháng 7 (giống như ở Nhật và Trung Quốc) và Phật giáo Nam Tông tổ chức từ rằm tháng 6 đến rằm tháng 9. Mùa này cũng gọi là Kiết hạ, Trung Quốc gọi là Tọa hạ坐夏, Nht cũng gọi là An cư 安居 (Ango), Ta hạ 坐夏 (Zage).
Như vậy cuối mùa An cư kiết hạ là lễ Vu Lan. Chính thức là rằm tháng 7, nhưng đa số các chùa Bắc Tông đã tổ chức từ mồng một lễ tụng Kinh Vu Lan và từ rằm đến cuối tháng thì lễ tụng kinh Địa Tạng. Bên chùa Nam Tông thì khác, chủ yếu là tổ chức giảng giáo lý lấy ra từ Tạng Kinh, chứ không tổ chức lễ Vu Lan, không sử dụng Kinh Vu Lan, Kinh Địa Tạng, v.v. như Bắc Tông.
Kinh Vu Lan (tức Vu Lan Bồn kinh 盂蘭盆經: Ullambana-sūtra) thường bị ngộ nhận là do Phật Thích Ca (Sākyamuni) viết. Kinh này đầu tiên được Trúc Pháp Lan 竺法蘭 (Dharmarakşa, 266-317) dịch từ Phạn văn sang Hán văn. Các lễ tụng kinh này mãi đến thời Lương Vũ Đế 梁武帝 (ti v 502-549) mi ph biến. Có thuyết khác cho rằng Kinh này được biên soạn tại Trung Quốc.
Tập quán cúng dường Tam Bảo để độ rỗi vong linh đói khát nơi địa ngục không rõ bắt nguồn tự bao giờ, nhưng người ta hay liên hệ đến câu chuyện Mục Kiền Liên 目犍連 (Maudgalyāyana), một đệ tử của Phật Thích Ca, hỏi Ngài cách cứu độ mẹ ông hiện là quỷ đói (preta) nơi địa ngục. Phật bảo muốn thế thì phải cầu sự hộ trì củathập phương chúng hội 十方眾會 (tc là tăng lữ). Đó là nguyên do của Vu Lan Bồn kinh.
Như vậy Phật giáo Ấn Độ truyền vào Trung Quốc đã pha trộn với tín ngưỡng gia tiên (ancestor worship) bản địa mà hình thành phong tục cúng dường để độ rỗi vong linh gia tiên bảy đời đang đói khát, đồng thời người ta cũng cúng tế thực phẩm và đốt y phục giấy cho vong linh của thân nhân. Lễ Vu Lan rất phổ biến tại Trung Quốc, Nhật Bản, và Việt Nam. Tại Nhật, cuối mùa Vu Lan, trên các ngọn núi người ta đốt các ngọn lửa xếp thành chữ Hán như chữ đại diupháp , v.v. xem như là những ngọn lửa dẫn đường các vong linh trở về cõi âm.
Việc cúng dường cầu xin cho cha mẹ và tổ tiên đã khuất được siêu thoát đã toát ra nét đẹp rất văn hóa và nhân bản của Vu Lan, bởi vì mùa Vu Lan cũng được xem là mùa báo hiếu. Trong nền đạo đức Đông phương, hiếu là đức hạnh đứng đầu trăm hạnh khác (Nhân sinh bách hạnh hiếu vi tiên 人生百行孝為先). Chữ hiếu 孝 đã xuất hiện tại Trung Quốc từ thời xa xưa. Những mảnh xương và mai rùa (giáp cốt 甲骨) thÂn-Thương 殷商 ghi chép lời bói (bốc từ 卜辭đã có ghi khắc chữ hiếu (theo dạng giáp cốt văn). Hứa Thận 許慎 thiĐông Hán giải thích chữ hiếu  trong Thuyết Văn Giải Tự 說文解字là: Khéo phụng sự cha mẹ, chữ hiếu  gm chữ lão  (người già; bị lược nét ) và chữ tử  (con). Ý nói con cái vâng lời cha mẹ già (Thiện sự phụ mẫu giả. Tòng lão tỉnh, tòng tử. Tử thừa lão dã 善事父母者从老省从子.子承老也).
Như vậy hiếu là nét văn hóa có sẵn tại Trung Quốc lâu đời, trước khi Trung Quốc tiếp thu Phật giáo Ấn Độ. Cách nói thông thường của người Trung Quốc «Dưỡng nhi phòng lão» 養兒防老 (nuôi con để trông cậy lúc tuổi già) đã thể hiện khát vọng chung của các bậc cha mẹ trên thế gian. Đó cũng là mục tiêu cơ bản của giáo dục tại Trung Quốc ngày xưa. Chữ giáo  (t tố giáo trong giáo dục 教育 và tôn giáo 宗教) nghĩa là dạy bảo. Thuyết Văn Giải Tự giảng: Người trên thi hành cho kẻ dưới bắt chước (Thượng sở thi hạ sở hiệu dã 上所施下所效也). Phân tích chữ giáo , ta thy ch này gồm chữ hiếu ghép với bộ phộc  (đánh khẽ), ý nói dạy bảo cho người ta đạo hiếu (nếu cần, cũng nên có roi vọt: phộc). Do đó mục tiêu của giáo dục không chỉ là truyền thụ kiến thức (trí dục) mà còn phải dạy cho người ta đạo đức (đức dục), mà trong đức dục thì điều quan trọng nhất là dạy cho con người biết kính yêu phụng dưỡng cha mẹ và tri ân tổ tiên nguồn cội. Một tôn giáo hay một hệ giáo dục nếu bỏ qua yếu tố này sẽ là một thực thể phi nhân bản.
Tam giáo Đông phương đều coi trọng đạo hiếu. Trường A Hàm Kinh 長阿含經 (quyn 11), các chiếu thư khắc trên đá (số 2 và số 4) của A Dục Vương 阿育王 (Aśoka, tại vị khoảng 274-237 tcn), v.v. đều nhấn mạnh sự hành thiện mà quan trọng nhất là kính yêu, vâng lời, và phụng dưỡng cha mẹ.
Nho giáo càng đề cao đạo hiếu qua các kinh điển như: Hiếu Kinh孝經, Thượng Thư 尚書, T Truy左傳, L Ký 禮記, Thi Kinh 詩經, T Thư 四書, v.v. Giáo dục con trẻ (tức là khải mông 啟蒙) phi lyđạo hiếu làm nền và điều này thấy rõ trong các tác phẩm dạy trẻ như: Tam Tự Kinh 三字經u Hc Qunh Lâm 幼學瓊林, Tiu H小學Đệ Tử Quy 弟子規, Tiu Nhi Ngữ 小兒語, v.v.
Đạo giáo tuy tôn chỉ là tu luyện thành tiên (gọi là tiên đạo 仙道) nhưng không coi thường nhân đạo 人道 bi lẽ đơn giản: làm người còn chưa xong lẽ nào thành tiên cho được? Trong nhân đạo thì trung và hiếu là trên hết, và đó cũng là gốc rễ của Đạo giáo như đạo gia Lý Thúc Hoàn 李叔還 nói: «Đạo giáo lấy trung hiếu làm gốc, lấy kính trọng Trời-noi theo pháp tắc tổ tiên- gây lợi cho vật-cứu giúp người mà làm nhiệm vụ.» (Đạo giáo thị dĩ trung hiếu vi bản, dĩ kính thiên pháp tổ lợi vật tế nhân vi vụ 道教是以忠孝為本以敬天法祖利物濟人為務). Vì thế có giáo phái của Đạo giáo là Tịnh Minh Đạo 淨明道 ly Trung Hiếu làm tôn chỉ nên còn gọi là Tịnh Minh Trung Hiếu Đạo 淨明忠孝道 (hưng khởi ở Nam Xương 南昌 Tây Sơn 西山, vào giữa đời Tống và đời Nguyên, thờ Hứa Tốn 許遜 [239-?] làm tổ sư). Các kinh điển Đạo giáo từ Thái Bình Kinh 太平經 đời Hán cho đến Bão Phác Tử Nội Thiên 抱朴子內篇 đời Tấn và cả những sách khuyến thiện (gọi là thiện thư 善書) cĐạo giáo như Cảm Ứng Thiên 感應篇Âm Chất Văn 陰騭文, Công Quá Cách 功過格, v.v. đều giảng dạy về đạo hiếu.
Xem thế, truyền thống đạo đức Đông phương (gồm những quy luật đạo đức phổ quát dân gian dung hợp với quy luật đạo đức tam giáo Nho, Thích, Đạo) đều coi trọng đạo hiếu. Cho nên mùa Vu Lan không chỉ dành riêng tăng ni và Phật tử tại gia mà còn dành cho tất cả mọi người có dịp nhìn lại bản thân: Cảm nhận thâm ân dưỡng dục của cha mẹ và ân đức khải đạo của tổ tiên; xót thương vong linh thân nhân đang đói lạnh; hành thiện để hồi hướng cho cửu huyền thất tổ được siêu thoát; và nhất là tận tâm phụng dưỡng cha mẹ chu đáo khi cha mẹ còn tại thế.
Nhân mùa Vu Lan, nêu lại vấn đề đạo hiếu là một điều thiết thực, và đạo hiếu được thể hiện không chỉ trong một mùa, mà phải thể hiện suốt cả đời. Một gia đình đề cao đạo hiếu tức là gia đình đó trở thành tế bào lành mạnh của xã hội, là một thành trì ngăn cản mọi tệ nạn của xã hội. Như Hiếu Kinh đã nói, để thể hiện đạo hiếu người ta phải lập thân (nếu không thể tự nuôi thân, lấy gì nuôi cha mẹ?), làm những việc tốt đẹp cho đời để rạng rỡ mẹ cha và gia tiên. Xã hội hiện nay bước dần theo xu hướng đa văn hóa và toàn cầu hoá. Để khỏi lạc nẻo, những người con phải ý thức mình đang đứng ở đâu và làm gì. Những gì đã và đang làm có tác hại gì đến danh dự cha mẹ, tổ tiên, có tác hại xã hội hay không? Sự tự vấn để răn mình này tăng cường ý thức công dân, giúp xã hội thêm lành mạnh.
LÊ ANH MINH

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thứ Tư, 26 tháng 12, 2012

Mùa Vu Lan -TG: Lê Anh Minh


00:49 31 thg 8 2012
Khoảng rằm tháng 7, một mùa lễ Phật giáo được tổ chức khắp Đông Nam Á. Ở Nhật gọi là lễ Obon お盆. Chữ Bon này là tức là Urabon, do Nhật phiên âm từ tiếng Phạn Ullambana; Trung Quốc phiên âm từ Phạn ra Hán là Vu Lan Bồn 盂蘭盆 hoÔ Lam Bà Na烏藍婆拏; Vit Nam gi tt là Vu Lan 盂蘭.
Nhiu người hiểu chữ Bồn theo âm Hán Việt, nghĩa là cái bồn, cái chậu, mà không ngờ đây chỉ là mượn âm Hán để phiên âm tiếng Phạn (Sanskrit) chứ nó không liên quan gì đến ý nghĩa nói trên. Sự ngộ nhận của nhiều người là vì mùa lễ này tín đồ cúng dường Tam Bảo để cầu nguyện vong linh thân nhân được siêu thoát. Cái bồn là vật đựng thức ăn cúng dường. Nếu hiểu trại như vậy (Vu: cái bát; Bồn: cái chậu) thì không ai giải thích được chữ Lan nghĩa là gì trong ngữ cảnh này (mặc dù nghĩa thông thường là hoa lan). Do đó, để hiểu đúng thuật ngữ này ta phải quay về gốc tiếng Phạn của nó. Ullambana có nghĩa là treo ngược, ngụ ý sự thống khổ của các vong linh đói khát bị đọa đầy (bị treo ngược) nơi địa ngục.
Sự cúng dường Tam Bảo đây cũng là nhân dịp kết thúc mùa An cư安居 (Vārşika), tức là ba tháng mùa mưa từ rằm tháng 4 đến rằm tháng 7 để tăng ni tu học, niệm kinh và tham thiền liên tục trong tự viện, không bước ra ngoài. Tại Việt nam, Phật giáo Bắc Tông tổ chức mùa An cư từ rằm tháng 4 đến rằm tháng 7 (giống như ở Nhật và Trung Quốc) và Phật giáo Nam Tông tổ chức từ rằm tháng 6 đến rằm tháng 9. Mùa này cũng gọi là Kiết hạ, Trung Quốc gọi là Tọa hạ坐夏, Nht cũng gọi là An cư 安居 (Ango), Ta hạ 坐夏 (Zage).
Như vậy cuối mùa An cư kiết hạ là lễ Vu Lan. Chính thức là rằm tháng 7, nhưng đa số các chùa Bắc Tông đã tổ chức từ mồng một lễ tụng Kinh Vu Lan và từ rằm đến cuối tháng thì lễ tụng kinh Địa Tạng. Bên chùa Nam Tông thì khác, chủ yếu là tổ chức giảng giáo lý lấy ra từ Tạng Kinh, chứ không tổ chức lễ Vu Lan, không sử dụng Kinh Vu Lan, Kinh Địa Tạng, v.v. như Bắc Tông.
Kinh Vu Lan (tức Vu Lan Bồn kinh 盂蘭盆經: Ullambana-sūtra) thường bị ngộ nhận là do Phật Thích Ca (Sākyamuni) viết. Kinh này đầu tiên được Trúc Pháp Lan 竺法蘭 (Dharmarakşa, 266-317) dịch từ Phạn văn sang Hán văn. Các lễ tụng kinh này mãi đến thời Lương Vũ Đế 梁武帝 (ti v 502-549) mi ph biến. Có thuyết khác cho rằng Kinh này được biên soạn tại Trung Quốc.
Tập quán cúng dường Tam Bảo để độ rỗi vong linh đói khát nơi địa ngục không rõ bắt nguồn tự bao giờ, nhưng người ta hay liên hệ đến câu chuyện Mục Kiền Liên 目犍連 (Maudgalyāyana), một đệ tử của Phật Thích Ca, hỏi Ngài cách cứu độ mẹ ông hiện là quỷ đói (preta) nơi địa ngục. Phật bảo muốn thế thì phải cầu sự hộ trì củathập phương chúng hội 十方眾會 (tc là tăng lữ). Đó là nguyên do của Vu Lan Bồn kinh.
Như vậy Phật giáo Ấn Độ truyền vào Trung Quốc đã pha trộn với tín ngưỡng gia tiên (ancestor worship) bản địa mà hình thành phong tục cúng dường để độ rỗi vong linh gia tiên bảy đời đang đói khát, đồng thời người ta cũng cúng tế thực phẩm và đốt y phục giấy cho vong linh của thân nhân. Lễ Vu Lan rất phổ biến tại Trung Quốc, Nhật Bản, và Việt Nam. Tại Nhật, cuối mùa Vu Lan, trên các ngọn núi người ta đốt các ngọn lửa xếp thành chữ Hán như chữ đại diupháp , v.v. xem như là những ngọn lửa dẫn đường các vong linh trở về cõi âm.
Việc cúng dường cầu xin cho cha mẹ và tổ tiên đã khuất được siêu thoát đã toát ra nét đẹp rất văn hóa và nhân bản của Vu Lan, bởi vì mùa Vu Lan cũng được xem là mùa báo hiếu. Trong nền đạo đức Đông phương, hiếu là đức hạnh đứng đầu trăm hạnh khác (Nhân sinh bách hạnh hiếu vi tiên 人生百行孝為先). Chữ hiếu 孝 đã xuất hiện tại Trung Quốc từ thời xa xưa. Những mảnh xương và mai rùa (giáp cốt 甲骨) thÂn-Thương 殷商 ghi chép lời bói (bốc từ 卜辭đã có ghi khắc chữ hiếu (theo dạng giáp cốt văn). Hứa Thận 許慎 thiĐông Hán giải thích chữ hiếu  trong Thuyết Văn Giải Tự 說文解字là: Khéo phụng sự cha mẹ, chữ hiếu  gm chữ lão  (người già; bị lược nét ) và chữ tử  (con). Ý nói con cái vâng lời cha mẹ già (Thiện sự phụ mẫu giả. Tòng lão tỉnh, tòng tử. Tử thừa lão dã 善事父母者从老省从子.子承老也).
Như vậy hiếu là nét văn hóa có sẵn tại Trung Quốc lâu đời, trước khi Trung Quốc tiếp thu Phật giáo Ấn Độ. Cách nói thông thường của người Trung Quốc «Dưỡng nhi phòng lão» 養兒防老 (nuôi con để trông cậy lúc tuổi già) đã thể hiện khát vọng chung của các bậc cha mẹ trên thế gian. Đó cũng là mục tiêu cơ bản của giáo dục tại Trung Quốc ngày xưa. Chữ giáo  (t tố giáo trong giáo dục 教育 và tôn giáo 宗教) nghĩa là dạy bảo. Thuyết Văn Giải Tự giảng: Người trên thi hành cho kẻ dưới bắt chước (Thượng sở thi hạ sở hiệu dã 上所施下所效也). Phân tích chữ giáo , ta thy ch này gồm chữ hiếu ghép với bộ phộc  (đánh khẽ), ý nói dạy bảo cho người ta đạo hiếu (nếu cần, cũng nên có roi vọt: phộc). Do đó mục tiêu của giáo dục không chỉ là truyền thụ kiến thức (trí dục) mà còn phải dạy cho người ta đạo đức (đức dục), mà trong đức dục thì điều quan trọng nhất là dạy cho con người biết kính yêu phụng dưỡng cha mẹ và tri ân tổ tiên nguồn cội. Một tôn giáo hay một hệ giáo dục nếu bỏ qua yếu tố này sẽ là một thực thể phi nhân bản.
Tam giáo Đông phương đều coi trọng đạo hiếu. Trường A Hàm Kinh 長阿含經 (quyn 11), các chiếu thư khắc trên đá (số 2 và số 4) của A Dục Vương 阿育王 (Aśoka, tại vị khoảng 274-237 tcn), v.v. đều nhấn mạnh sự hành thiện mà quan trọng nhất là kính yêu, vâng lời, và phụng dưỡng cha mẹ.
Nho giáo càng đề cao đạo hiếu qua các kinh điển như: Hiếu Kinh孝經, Thượng Thư 尚書, T Truy左傳, L Ký 禮記, Thi Kinh 詩經, T Thư 四書, v.v. Giáo dục con trẻ (tức là khải mông 啟蒙) phi lyđạo hiếu làm nền và điều này thấy rõ trong các tác phẩm dạy trẻ như: Tam Tự Kinh 三字經u Hc Qunh Lâm 幼學瓊林, Tiu H小學Đệ Tử Quy 弟子規, Tiu Nhi Ngữ 小兒語, v.v.
Đạo giáo tuy tôn chỉ là tu luyện thành tiên (gọi là tiên đạo 仙道) nhưng không coi thường nhân đạo 人道 bi lẽ đơn giản: làm người còn chưa xong lẽ nào thành tiên cho được? Trong nhân đạo thì trung và hiếu là trên hết, và đó cũng là gốc rễ của Đạo giáo như đạo gia Lý Thúc Hoàn 李叔還 nói: «Đạo giáo lấy trung hiếu làm gốc, lấy kính trọng Trời-noi theo pháp tắc tổ tiên- gây lợi cho vật-cứu giúp người mà làm nhiệm vụ.» (Đạo giáo thị dĩ trung hiếu vi bản, dĩ kính thiên pháp tổ lợi vật tế nhân vi vụ 道教是以忠孝為本以敬天法祖利物濟人為務). Vì thế có giáo phái của Đạo giáo là Tịnh Minh Đạo 淨明道 ly Trung Hiếu làm tôn chỉ nên còn gọi là Tịnh Minh Trung Hiếu Đạo 淨明忠孝道 (hưng khởi ở Nam Xương 南昌 Tây Sơn 西山, vào giữa đời Tống và đời Nguyên, thờ Hứa Tốn 許遜 [239-?] làm tổ sư). Các kinh điển Đạo giáo từ Thái Bình Kinh 太平經 đời Hán cho đến Bão Phác Tử Nội Thiên 抱朴子內篇 đời Tấn và cả những sách khuyến thiện (gọi là thiện thư 善書) cĐạo giáo như Cảm Ứng Thiên 感應篇Âm Chất Văn 陰騭文, Công Quá Cách 功過格, v.v. đều giảng dạy về đạo hiếu.
Xem thế, truyền thống đạo đức Đông phương (gồm những quy luật đạo đức phổ quát dân gian dung hợp với quy luật đạo đức tam giáo Nho, Thích, Đạo) đều coi trọng đạo hiếu. Cho nên mùa Vu Lan không chỉ dành riêng tăng ni và Phật tử tại gia mà còn dành cho tất cả mọi người có dịp nhìn lại bản thân: Cảm nhận thâm ân dưỡng dục của cha mẹ và ân đức khải đạo của tổ tiên; xót thương vong linh thân nhân đang đói lạnh; hành thiện để hồi hướng cho cửu huyền thất tổ được siêu thoát; và nhất là tận tâm phụng dưỡng cha mẹ chu đáo khi cha mẹ còn tại thế.
Nhân mùa Vu Lan, nêu lại vấn đề đạo hiếu là một điều thiết thực, và đạo hiếu được thể hiện không chỉ trong một mùa, mà phải thể hiện suốt cả đời. Một gia đình đề cao đạo hiếu tức là gia đình đó trở thành tế bào lành mạnh của xã hội, là một thành trì ngăn cản mọi tệ nạn của xã hội. Như Hiếu Kinh đã nói, để thể hiện đạo hiếu người ta phải lập thân (nếu không thể tự nuôi thân, lấy gì nuôi cha mẹ?), làm những việc tốt đẹp cho đời để rạng rỡ mẹ cha và gia tiên. Xã hội hiện nay bước dần theo xu hướng đa văn hóa và toàn cầu hoá. Để khỏi lạc nẻo, những người con phải ý thức mình đang đứng ở đâu và làm gì. Những gì đã và đang làm có tác hại gì đến danh dự cha mẹ, tổ tiên, có tác hại xã hội hay không? Sự tự vấn để răn mình này tăng cường ý thức công dân, giúp xã hội thêm lành mạnh.
LÊ ANH MINH

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét