Thứ Năm, 13 tháng 12, 2012

Đôi guốc


Đôi guốc, vật dụng thân thuộc trong đời sống người Việt

Từng được kể rất nhiều trong truyền thuyết. Từ đôi guốc làm bằng ngà voi của Bà Triệu, đến guốc tre, guốc gỗ, rồi guốc nhựa... đôi guốc đã gắn bó lâu dài với đời sống của người Việt...

Song song hai chiếc thuyền tình
Đầu rồng đuôi phượng đóng đinh hai hàng
Một chiếc em chở năm chàng
Hai chiếc em chở mười chàng ra đi
Trách người quân tử lỗi nghì
Ăn trên ngồi trốc chẳng nghĩ gì đến em!





Câu đố theo thể lục bát ý nhị trên là đố về đôi guốc nhỏ bé, một vật dụng gắn bó mật thiết trong đời sống của người Việt. Trong văn học dân gian, có truyền thuyết Chín Chúa tranh ngôi nhắc đến sự tích đôi guốc đá được truyền tụng nhiều đời trên vùng đất Cao Bằng. Thuở ấy, Cao Bằng thuộc bộ Vũ Định, nước Văn Lang. Bộ này rộng bao la, chia làm chín vùng, mỗi vùng có một Po (chúa) cai quản. Mỗi Po lại có một biệt tài và không Po nào chịu phục Po nào, vậy nên các Po họp nhau lại để thi tài. Có Po khoe tài cấy lúa, có Po khoe tài ghép thuyền, Po này khoe có tài trong một ngày đêm mài một chiếc lưỡi cày thành chiếc kim khâu, Po khác lại khoe tài bắn cung, lại có Po khoe đẽo đá thành đôi guốc khổng lồ. Cuộc đua tài diễn ra trong một ngày đêm mà chẳng Po nào làm xong được việc của mình. Po khoe có tài đẽo đá tuy đã đẽo xong đôi guốc đá rất to, nhưng chưa kịp làm quai, đành bỏ. Ngày nay đôi guốc đá đó vẫn còn nguyên vẹn ở làng Bản Thảnh (xã Bế Triều, Hòa An, Cao Bằng).

Xưa kia, trong điều kiện khí hậu nóng ẩm, cùng với thói quen trồng lúa nước của người Việt, giỏi dùng thuyền, người Việt thường để chân trần. Vào cuối thế kỷ thứ X, vua Lê Đại Hành còn có lúc cởi trần, đóng khố, đi chân đất, đến đời nhà Trần người dân đều đi chân không, da chân rất dày khiến họ trèo núi rất nhanh nhẹn và không sợ chông gai. Chỉ có người quý tộc mới đi giầy bằng da, nhưng khi đến cung điện thì lại phải tháo giầy. Nói chung người Việt xưa kia ít dùng guốc.

Thế nhưng theo sử sách thì đôi guốc đã xuất hiện ở Việt Nam khá sớm. Các sách cổ của Trung Quốc như Nam Việt Chí, Giao Châu Ký có ghi rằng, Bà Triệu ở thế kỷ thứ III có đi guốc bằng ngà voi. Ngày trước ở nông thôn, vào những ngày giá rét, phụ nữ và đàn ông chỉ khi nào đi dự hội hè đình đám thì mới đi guốc tre, guốc đi trong nhà thường được người đàn ông đẽo bằng gỗ, có mũi uốn cong cong để bảo vệ ngón chân, quai dọc thì tết bằng mây chứ không phải bằng quai da đóng ngang như kiểu guốc thời cận đại.

Trước kia ở Phú Yên (Nam Trung Bộ), đôi guốc bình dân nhất là đôi guốc do người dân quê tự đẽo lấy. Loại guốc này cao hơn đôi guốc sản xuất để bán, mũi hơi cong lên, trước mũi có dùi một lỗ thủng từ trên xuống, phía sau dùi một lỗ ngang. Quai guốc là một sợi dây, có thể dùng vải xe lại mềm, êm cho khỏi đau chân. Guốc xỏ quai lỗ ngang, đưa tới trước rồi đưa xuống lỗ phía dưới, giống như quai dép Nhật thời nay. Chỗ cong lên tránh cho quai không bị giáp đất để khỏi bị mòn nhanh, chóng đứt.




Bên cạnh guốc tự đẽo, ở tỉnh này cũng đã có bán guốc gỗ dành cho đàn ông và phụ nữ. Guốc cho phụ nữ hơi eo ở chính giữa, còn guốc đàn ông thì không eo nên gọi là guốc xuồng. Guốc sản xuất ở Phú Yên không sơn, giữ nguyên màu trắng của gỗ, thường là cây lồng mực. Còn guốc nhập từ Huế thì có sơn hoặc đều một màu hoặc sơn hai màu (thường là màu đen và màu nâu), thường phía lòng bàn chân là một hình tam giác màu nhạt.

Xưa kia chỉ những người khá giả mới đi guốc sơn, một số nơi gọi là guốc dòn, vì thế người ta mới nói "Chân giầy chân dòn" để chỉ những người giàu có và sang diện. Cho mãi đến năm 1940, học trò nam trường công ở tỉnh Bến Tre mặc bộ bà ba trắng, chân đi guốc. Trước năm 1945, guốc sản xuất ở kinh đô Huế gọi là Guốc Kinh. Đây là loại guốc làm từ dừa hay gỗ nhẹ, sơn trắng, mũi thêu và kim tuyến.

Ở Hà Nội có kiểu guốc gọi là phi mã, đế cao dành cho phụ nữ, hay được quảng cáo trên báo chí hồi những năm 40:

Bấy lâu đáy bể mò kim
Kiểu giày phi mã nay tìm đã ra


Sang đến năm 50, 60, người ta đem guốc mộc được sản xuất ở làng Đơ Đồng (tức Yên Xá, thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội), ở Kẻ Giày (xã Liên Trung, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây) về số nhà phố 12 Hàng Gà, nay chuyển về phố Bạch Mai ở Hà Nội để sơn, xì hoa và sau đó mới đem đi bán. Đi guốc dưới màu xanh của những hàng cây sấu cổ thụ đã là nét đẹp một thời của những thiếu nữ thủ đô.

Đường sấu lâu rồi im tiếng guốc
Xuân về, táo rụng nhớ đàn em.

(Thơ Tố Hữu)


Vào cuối những năm 70, bên cạnh guốc gỗ, guốc nhựa đã ra đời. Cùng với giầy dép chức năng chính của đôi guốc là để trang trí cho đôi chân. Tuy vậy cũng có trường hợp đôi guốc được khoét rỗng gót để cất giấu vàng bạc và các thứ nữ trang quý hiếm khác mỗi khi đi đâu xa.

Nếu như chiếc nón, chiếc yếm là những vật gợi cảm hứng cho hồn thơ dân gian và thường được nhắc đến trong các câu ca dao tục ngữ, thì đôi guốc hầu như bị các thi sĩ dân gian lãng quên. Hiếm hoi mới có bài:

Sáng mai mang đôi guốc ra dạo bên vườn
Cuốc kêu cuốc hát bên cồn hu ha
Cuốc kêu tiếng nhỏ tiếng to
Nửa thương phận cuốc, nửa lo phận mình.

(Ca dao Nam Trung Bộ)


Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng đôi guốc đã gắn bó với đời sống người Việt lâu đến thế nào. Thậm chí có thời gian việc dùng guốc, làm guốc đã bị lắng xuống. Cho đến bây giờ thì cái thú dùng guốc đã được khôi phục trở lại. Mấy năm gần đây sự phục hưng này đã chứng tỏ một điều rằng quan niệm về cái đẹp đang ngày càng đa dạng hơn, và việc dùng guốc trở lại đã phần nào gìn giữ và trân trọng những gì được gọi là vật dụng giản dị của lớp người xưa.

Nguồn: Hoàng Oanh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thứ Năm, 13 tháng 12, 2012

Đôi guốc


Đôi guốc, vật dụng thân thuộc trong đời sống người Việt

Từng được kể rất nhiều trong truyền thuyết. Từ đôi guốc làm bằng ngà voi của Bà Triệu, đến guốc tre, guốc gỗ, rồi guốc nhựa... đôi guốc đã gắn bó lâu dài với đời sống của người Việt...

Song song hai chiếc thuyền tình
Đầu rồng đuôi phượng đóng đinh hai hàng
Một chiếc em chở năm chàng
Hai chiếc em chở mười chàng ra đi
Trách người quân tử lỗi nghì
Ăn trên ngồi trốc chẳng nghĩ gì đến em!





Câu đố theo thể lục bát ý nhị trên là đố về đôi guốc nhỏ bé, một vật dụng gắn bó mật thiết trong đời sống của người Việt. Trong văn học dân gian, có truyền thuyết Chín Chúa tranh ngôi nhắc đến sự tích đôi guốc đá được truyền tụng nhiều đời trên vùng đất Cao Bằng. Thuở ấy, Cao Bằng thuộc bộ Vũ Định, nước Văn Lang. Bộ này rộng bao la, chia làm chín vùng, mỗi vùng có một Po (chúa) cai quản. Mỗi Po lại có một biệt tài và không Po nào chịu phục Po nào, vậy nên các Po họp nhau lại để thi tài. Có Po khoe tài cấy lúa, có Po khoe tài ghép thuyền, Po này khoe có tài trong một ngày đêm mài một chiếc lưỡi cày thành chiếc kim khâu, Po khác lại khoe tài bắn cung, lại có Po khoe đẽo đá thành đôi guốc khổng lồ. Cuộc đua tài diễn ra trong một ngày đêm mà chẳng Po nào làm xong được việc của mình. Po khoe có tài đẽo đá tuy đã đẽo xong đôi guốc đá rất to, nhưng chưa kịp làm quai, đành bỏ. Ngày nay đôi guốc đá đó vẫn còn nguyên vẹn ở làng Bản Thảnh (xã Bế Triều, Hòa An, Cao Bằng).

Xưa kia, trong điều kiện khí hậu nóng ẩm, cùng với thói quen trồng lúa nước của người Việt, giỏi dùng thuyền, người Việt thường để chân trần. Vào cuối thế kỷ thứ X, vua Lê Đại Hành còn có lúc cởi trần, đóng khố, đi chân đất, đến đời nhà Trần người dân đều đi chân không, da chân rất dày khiến họ trèo núi rất nhanh nhẹn và không sợ chông gai. Chỉ có người quý tộc mới đi giầy bằng da, nhưng khi đến cung điện thì lại phải tháo giầy. Nói chung người Việt xưa kia ít dùng guốc.

Thế nhưng theo sử sách thì đôi guốc đã xuất hiện ở Việt Nam khá sớm. Các sách cổ của Trung Quốc như Nam Việt Chí, Giao Châu Ký có ghi rằng, Bà Triệu ở thế kỷ thứ III có đi guốc bằng ngà voi. Ngày trước ở nông thôn, vào những ngày giá rét, phụ nữ và đàn ông chỉ khi nào đi dự hội hè đình đám thì mới đi guốc tre, guốc đi trong nhà thường được người đàn ông đẽo bằng gỗ, có mũi uốn cong cong để bảo vệ ngón chân, quai dọc thì tết bằng mây chứ không phải bằng quai da đóng ngang như kiểu guốc thời cận đại.

Trước kia ở Phú Yên (Nam Trung Bộ), đôi guốc bình dân nhất là đôi guốc do người dân quê tự đẽo lấy. Loại guốc này cao hơn đôi guốc sản xuất để bán, mũi hơi cong lên, trước mũi có dùi một lỗ thủng từ trên xuống, phía sau dùi một lỗ ngang. Quai guốc là một sợi dây, có thể dùng vải xe lại mềm, êm cho khỏi đau chân. Guốc xỏ quai lỗ ngang, đưa tới trước rồi đưa xuống lỗ phía dưới, giống như quai dép Nhật thời nay. Chỗ cong lên tránh cho quai không bị giáp đất để khỏi bị mòn nhanh, chóng đứt.




Bên cạnh guốc tự đẽo, ở tỉnh này cũng đã có bán guốc gỗ dành cho đàn ông và phụ nữ. Guốc cho phụ nữ hơi eo ở chính giữa, còn guốc đàn ông thì không eo nên gọi là guốc xuồng. Guốc sản xuất ở Phú Yên không sơn, giữ nguyên màu trắng của gỗ, thường là cây lồng mực. Còn guốc nhập từ Huế thì có sơn hoặc đều một màu hoặc sơn hai màu (thường là màu đen và màu nâu), thường phía lòng bàn chân là một hình tam giác màu nhạt.

Xưa kia chỉ những người khá giả mới đi guốc sơn, một số nơi gọi là guốc dòn, vì thế người ta mới nói "Chân giầy chân dòn" để chỉ những người giàu có và sang diện. Cho mãi đến năm 1940, học trò nam trường công ở tỉnh Bến Tre mặc bộ bà ba trắng, chân đi guốc. Trước năm 1945, guốc sản xuất ở kinh đô Huế gọi là Guốc Kinh. Đây là loại guốc làm từ dừa hay gỗ nhẹ, sơn trắng, mũi thêu và kim tuyến.

Ở Hà Nội có kiểu guốc gọi là phi mã, đế cao dành cho phụ nữ, hay được quảng cáo trên báo chí hồi những năm 40:

Bấy lâu đáy bể mò kim
Kiểu giày phi mã nay tìm đã ra


Sang đến năm 50, 60, người ta đem guốc mộc được sản xuất ở làng Đơ Đồng (tức Yên Xá, thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội), ở Kẻ Giày (xã Liên Trung, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây) về số nhà phố 12 Hàng Gà, nay chuyển về phố Bạch Mai ở Hà Nội để sơn, xì hoa và sau đó mới đem đi bán. Đi guốc dưới màu xanh của những hàng cây sấu cổ thụ đã là nét đẹp một thời của những thiếu nữ thủ đô.

Đường sấu lâu rồi im tiếng guốc
Xuân về, táo rụng nhớ đàn em.

(Thơ Tố Hữu)


Vào cuối những năm 70, bên cạnh guốc gỗ, guốc nhựa đã ra đời. Cùng với giầy dép chức năng chính của đôi guốc là để trang trí cho đôi chân. Tuy vậy cũng có trường hợp đôi guốc được khoét rỗng gót để cất giấu vàng bạc và các thứ nữ trang quý hiếm khác mỗi khi đi đâu xa.

Nếu như chiếc nón, chiếc yếm là những vật gợi cảm hứng cho hồn thơ dân gian và thường được nhắc đến trong các câu ca dao tục ngữ, thì đôi guốc hầu như bị các thi sĩ dân gian lãng quên. Hiếm hoi mới có bài:

Sáng mai mang đôi guốc ra dạo bên vườn
Cuốc kêu cuốc hát bên cồn hu ha
Cuốc kêu tiếng nhỏ tiếng to
Nửa thương phận cuốc, nửa lo phận mình.

(Ca dao Nam Trung Bộ)


Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng đôi guốc đã gắn bó với đời sống người Việt lâu đến thế nào. Thậm chí có thời gian việc dùng guốc, làm guốc đã bị lắng xuống. Cho đến bây giờ thì cái thú dùng guốc đã được khôi phục trở lại. Mấy năm gần đây sự phục hưng này đã chứng tỏ một điều rằng quan niệm về cái đẹp đang ngày càng đa dạng hơn, và việc dùng guốc trở lại đã phần nào gìn giữ và trân trọng những gì được gọi là vật dụng giản dị của lớp người xưa.

Nguồn: Hoàng Oanh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét