Thứ Năm, 26 tháng 8, 2010
Hòn vọng phu và Lê Thương
sinh ngày 8 tháng 1 năm 1914,
tại phố Hàm Long, Hà Nội,
trong một gia đình bố mẹ là những nghệ sĩ cổ nhạc.
Một bài viết khác cho rằng Lê Thương sinh tại Nam Định.
Chi tiết về cuộc đời ông rất ít được nhắc tới.
Theo hồi ký của Phạm Duy, Lê Thương sinh năm 1913
và là một thầy tu hoàn tục.
Năm 1935, Lê Thương hành nghề dạy học ở Hà Nội, sau đó ông chuyển về dạy ở Hải Phòng.
Lê Thương tên thật là Ngô Đình Hộ,
Lê Thương cùng Hoàng Quý, Hoàng Phú (tức nhạc sĩ Tô Vũ), Phạm Ngữ, Canh Thân tụ họp thành một nhóm ca nhạc sĩ trẻ để bắt đầu sáng tác và hát phụ diễn cho những buổi diễn kịch nói của nhóm kịch Thế Lữ tại Hải Phòng, hay theo ban kịch đi hát tại Hà Nội, Vĩnh Yên.
Họ cũng là những hướng đạo sinh và hay tổ chức đi cắm trại hay đi hát tại các tỉnh lân cận bằng xe đạp.
Năm 1941, Lê Thương vào miền Nam.
Ban đầu ông ở An Hóa, tỉnh Bến Tre, sau đó Lê Thương chuyển về sống tại Sài Gòn.
Tuy là một nhạc sĩ tài danh, nhưng nghề chính của ông là dạy học.
Ông từng là giáo sư Sử Địa, có một thời gian giảng dạy tại một số trường trung học tư ở Sài Gòn.
Lê Thương cũng từng làm công chức ở Trung tâm Học liệu, bộ Quốc Gia Giáo Dục của Vnch.
Lê Thương là một trong những người tiên phong viết tân nhạc Việt Nam .
Tân nhạc Việt Nam bắt đầu khoảng năm 1938. Lúc đó, những bản tân nhạc Việt Nam đầu tiên có lẽ là những bản như
Tâm Hồn Anh Tìm Em của Dương Thiệu Tước,
Bông Cúc Vàng và Kiếp Hoa thơ Nguyễn Văn Cổn và nhạc Nguyễn Văn Tuyên,
Bình Minh thơ Thế Lữ và nhạc Nguyễn Xuân Khoát, Khúc Yêu Đương của Thẩm Oánh,
Đám Mây Hàng của Phạm Đăng Hinh,
Đường Trường của Trần Quang Ngọc,
Bản Đàn Xuân của Lê Thương...
Ngoài Bản Đàn Xuân, thời đó nhạc sĩ Lê Thương còn ở miền Bắc , sau đã có phổ biến thêm những tác phẩm khác như Tiếng Đàn Đêm Khuya, Một Ngày Xanh, Trên Sông Dương Tử, Thu Trên Đảo Kinh Châu...
Nhạc sĩ Lê Thương viết nhiều loại nhạc khác nhau.
Năm 1941, Lê Thương vào miền Nam định cư.
Thời điểm đó, ông có sáng tác những bản nhạc phổ thơ như :
Lời Kỹ Nữ (thơ Xuân Diệu),
Lời Vũ Nữ (thơ Nguyễn Hoàng Tư),
Bông Hoa Rừng (thơ Thế Lữ),
Tiếng Thùy Dương (tức Ngậm Ngùi thơ Huy Cận)
và Tiếng Thu (thơ Lưu Trọng Lư).
Hai bài Ngậm Ngùi và Tiếng Thu cũng được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc sau này.
Lê Thương là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết nhạc hài hước với những bản :
Hoà Bình 48,
Liên Hiệp Quốc,
Làng Báo Sài Gòn...
Những bản này do nghệ sĩ Trần Văn Trạch trình diễn nhiều lần vào những của thập niên 1940.
Một bản nhạc ông sáng tác được hát nhiều trong thời kháng chiến chống Pháp là Bà Mẹ Việt Nam, chuyện một bà mẹ có bốn đứa con trai trong thời kháng chiến.
Nhạc sĩ Lê Thương có tiếng về viết nhạc chuyện ca như Nàng Hà Tiên,
Lịch Sử Loài Người,
Hoa Thủy Tiên...
và còn thêm một số bài ca nhạc cho vài ban kịch và hãng phim.
Về sau, mỗi cách tuần Lê Thương và nhạc sĩ Lê Cao Phan phụ trách ban nhạc Măng Non cho trẻ em, phát thanh qua làn sóng điện các chuyện cổ tích, khúc dân ca, bài ca nhi đồng...
Ngoài ra Lê Thương còn có đặt lời cho những bản nhạc ngoại quốc ngắn như
Nhớ Lào (nhạc Lào),
Bông Hoa Đại tức Ô Đuồng Chăm Pá (nhạc Lào),
Lòng Trẻ Trai (nhạc Hoa Kỳ),
Hoa Anh Đào tức Sakura (cổ nhạc Nhật Bản),
Màn Brúc Đánh Giặc (dân ca Pháp)...
Một trong những loại nhạc được ông chú ý đến và sáng tác là nhạc Nhi Đồng và Thiếu Niên gồm những bản như Cô Bán Bánh,
Con Mèo Trèo Cây Cau,
Thằng Bé Tí Non,
Ông Nhang Bà Nhang,
Đây-Nhi Đồng Ca,
Truyền Kỳ Việt Sư,
û Thiếu Sinh Ca...
Có lẽ hầu như tất cả mọi người đều đã có nghe, biết bài hát Thằng Cuội:
Thằng Cuội
Ca sĩ: Ánh Tuyết
Bóng trăng trắng ngà
Có cây đa to
Có thằng Cuội già
Ôm một mối mơ
Lặng yên ta nói Cuội nghe
“Ở cung trăng mãi làm chi?”
Bóng trăng trắng ngà
Có cây đa to
Có thằng Cuội già
Ôm một mối mơ.
Một bản nhạc rất phổ thông ở các trường trung tiểu học là bài Học Sinh Hành Khúc:
Học Sinh Hành Khúc
Ca sĩ: Chưa rõ
Học sinh là người Tổ Quốc mong cho mai sau
Học sinh xây đời niên thiếu trên bao công lao...
Rồi đến bản nhạc ngộ nghĩnh Ông Ninh Ông Nang:
Ông Ninh Ông Nang
Ca sĩ: Tư Anh - Khúc Minh
Ông Nỉnh ông Ninh, ông ra đầu đình
Ông gặp ông Nảng ông Nang
Ông Nảng ông Nang, ông ra đầu làng
Ông gặp ông Nỉnh ông Ninh
Nang Ninh đầu đình
Và Ninh Nang đầu làng...
(Bài này ,tôi lấy một đoạn ,để múa trong vở kịch ""Tai .mắt mũi ...tham gia hội diễn "Minh họa tác phẩm văn học _đoạt giải nhì cấp Quận _Đội kịch được khen nức nở ..rằng ...sáng tạo ...không bê nguyên văn của tác phẩm .Một vở kịch ,tôi dựng ,không có kịch bản..Thầy trưởng ban giám khảo xin kịch bản ,tôi nói hỏng có ,,,Lời thoại theo ngẫu hứng ,,,nên không ghi lại ....Ông ấy lắc đầu ...kêu trời ...")
Và đến bài hát Tuổi Thơ thật dễ thương:
Tuổi Thơ
Ca sĩ: Xuân Nghi
Tuổi Thơ
Ca sĩ: Ánh Tuyết
Trời xanh xanh mát
Hương thơm thơm ngát
Cùng nhau ta múa điệu ca
Cùng nhau ta hát đời ta
Nhụy hoa thanh khiết
Men hoa ngây ngất
Hát cho tâm hồn được khuây
Cũng như cánh đẹp được bay
Sớm bắt bướm hái hoa kêu la nô đùa
Chiều lại ra dạo chơi vườn hoa
Tôi quyến luyến má ba vui ca bên đèn
Bẩy giờ đêm nằm ngủ mơ thấy tiên
(Bài này vào năm 2003_HS song ca ,tôi dựng múa minh họa _đoạt giải 3 cấp Quận )
Về nhạc Lê Thương, đáng bàn đến nhất là ba bản nhạc trong Trường Ca Hòn Vọng Phu.
Bằng âm điệu gần gũi âm giai Ngũ Cung của Dân Ca Việt Nam, với ảnh hưởng từ Chinh Phụ Ngâm Khúc của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm và Đặng Trần Côn, Hòn Vọng Phu 1 được ông viết tại Bến Tre, khoảng năm 1943.
Mở đầu bài hát, người chồng theo lệnh vua, ra mặt trận với tiếng trống thúc dục:
Lệnh vua hành quân trống kêu dồn
Quan với quân lên đường
Đoàn ngựa xe cuối cùng
Vừa đuổi theo lối sông
Phía cách quan xa trường
Quan với quân lên đường
Hàng cờ theo trống dồn
Ngoài sườn non cuối thôn
Phất phơ ngậm ngùi bay ...
Từ đó, xa cách muôn trùng:
...Người đi ngoài vạn lý quan sơn
Người mong chờ trong bóng cô đơn...
Cứ như vậy, người vợ ở lại ngày ngày ôm con, đứng đợi ngóng chồng trở về và cuối cùng cả hai mẹ con vì mòn mỏi chờ mãi đã hóa ra đá:
...Người không rời khỏi kiếp gian nan
Người biến thành tượng đá ôm con.
Sau đó, ông đã sáng tác thêm Hòn Vọng Phu 2 tức Ai Xuôi Vạn Lý khoảng năm 1946. Mẹ con người đàn bà hóa đá vẫn chờ mong. Giai điệu nhạc thật buồn:
Người vọng phu trong lúc gió mưa
Bế con đã hoài công để đứng chờ
Người chồng đi đã bao năm chưa thấy về
Đá mòn nhưng hồn chưa mòn giấc mơ...
...Mà chờ người đi mất từ ngàn xưa
Nàng đứng ôm con xem chàng về hay chưa?
Về hay chưa?
Có ai xuôi vạn lý, nhắn đôi câu giúp nàng
Lấy cây hương thật quý, thắp lên thương tiếc chàng...
Người đi chắc chả bao giờ quay lại:
...Thôi đứng đợi làm chi
Thời gian có hứa mấy khi
Sẽ đem đến trả đúng kỳ
Những người mang mệnh biệt ly.
Hòn Vọng Phu 3 tức Người Chinh Phu Về viết xong năm 1947. Mở đầu, vẫn còn hình ảnh não nề của tượng đá chờ trông:
Nơi phía Nam giữa núi mờ
Ai bế con mãi đứng chờ
Như nước non xưa đến giờ...
Và cuối cùng người chinh phu cưỡi ngựa trở về, âm điệu dòng nhạc như tiếng ngựa phi:
Đường chiều mịt mù, cát bay tỏa bước ngựa phi đường trường
Nếp tàn y hùng cường, vẫn còn bay trong gió bóng từ xa, sắp dần qua
Bóng chàng chập chùng, vượt núi non cũ, với hành lương độ đường
Chiếc hùng gươm danh tướng dưới tà uy đếm nhịp đi, vó ngựa phi...
Nhưng cuộc trở về đã quá muộn màng, ai oán:
...Nhớ cố hương lưu luyến tấc lòng mau dồn chân
Vết bước đi trên phiến đá mòn còn in dấu
Từ bóng cây ngôi mộ bên đường
Từ mái tranh bên đình trong làng
Nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống
Bao mối thương vang động trong lòng.
Tác phẩm tuyệt diệu, lớn lao và bất diệt Trường Ca Hòn Vọng Phu, đã làm nổi bật tên tuổi của nhạc sĩ Lê Thương trong lịch sử Âm Nhạc Việt Nam...
Sưu tầm ...tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Thứ Năm, 26 tháng 8, 2010
Hòn vọng phu và Lê Thương
sinh ngày 8 tháng 1 năm 1914,
tại phố Hàm Long, Hà Nội,
trong một gia đình bố mẹ là những nghệ sĩ cổ nhạc.
Một bài viết khác cho rằng Lê Thương sinh tại Nam Định.
Chi tiết về cuộc đời ông rất ít được nhắc tới.
Theo hồi ký của Phạm Duy, Lê Thương sinh năm 1913
và là một thầy tu hoàn tục.
Năm 1935, Lê Thương hành nghề dạy học ở Hà Nội, sau đó ông chuyển về dạy ở Hải Phòng.
Lê Thương tên thật là Ngô Đình Hộ,
Lê Thương cùng Hoàng Quý, Hoàng Phú (tức nhạc sĩ Tô Vũ), Phạm Ngữ, Canh Thân tụ họp thành một nhóm ca nhạc sĩ trẻ để bắt đầu sáng tác và hát phụ diễn cho những buổi diễn kịch nói của nhóm kịch Thế Lữ tại Hải Phòng, hay theo ban kịch đi hát tại Hà Nội, Vĩnh Yên.
Họ cũng là những hướng đạo sinh và hay tổ chức đi cắm trại hay đi hát tại các tỉnh lân cận bằng xe đạp.
Năm 1941, Lê Thương vào miền Nam.
Ban đầu ông ở An Hóa, tỉnh Bến Tre, sau đó Lê Thương chuyển về sống tại Sài Gòn.
Tuy là một nhạc sĩ tài danh, nhưng nghề chính của ông là dạy học.
Ông từng là giáo sư Sử Địa, có một thời gian giảng dạy tại một số trường trung học tư ở Sài Gòn.
Lê Thương cũng từng làm công chức ở Trung tâm Học liệu, bộ Quốc Gia Giáo Dục của Vnch.
Lê Thương là một trong những người tiên phong viết tân nhạc Việt Nam .
Tân nhạc Việt Nam bắt đầu khoảng năm 1938. Lúc đó, những bản tân nhạc Việt Nam đầu tiên có lẽ là những bản như
Tâm Hồn Anh Tìm Em của Dương Thiệu Tước,
Bông Cúc Vàng và Kiếp Hoa thơ Nguyễn Văn Cổn và nhạc Nguyễn Văn Tuyên,
Bình Minh thơ Thế Lữ và nhạc Nguyễn Xuân Khoát, Khúc Yêu Đương của Thẩm Oánh,
Đám Mây Hàng của Phạm Đăng Hinh,
Đường Trường của Trần Quang Ngọc,
Bản Đàn Xuân của Lê Thương...
Ngoài Bản Đàn Xuân, thời đó nhạc sĩ Lê Thương còn ở miền Bắc , sau đã có phổ biến thêm những tác phẩm khác như Tiếng Đàn Đêm Khuya, Một Ngày Xanh, Trên Sông Dương Tử, Thu Trên Đảo Kinh Châu...
Nhạc sĩ Lê Thương viết nhiều loại nhạc khác nhau.
Năm 1941, Lê Thương vào miền Nam định cư.
Thời điểm đó, ông có sáng tác những bản nhạc phổ thơ như :
Lời Kỹ Nữ (thơ Xuân Diệu),
Lời Vũ Nữ (thơ Nguyễn Hoàng Tư),
Bông Hoa Rừng (thơ Thế Lữ),
Tiếng Thùy Dương (tức Ngậm Ngùi thơ Huy Cận)
và Tiếng Thu (thơ Lưu Trọng Lư).
Hai bài Ngậm Ngùi và Tiếng Thu cũng được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc sau này.
Lê Thương là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết nhạc hài hước với những bản :
Hoà Bình 48,
Liên Hiệp Quốc,
Làng Báo Sài Gòn...
Những bản này do nghệ sĩ Trần Văn Trạch trình diễn nhiều lần vào những của thập niên 1940.
Một bản nhạc ông sáng tác được hát nhiều trong thời kháng chiến chống Pháp là Bà Mẹ Việt Nam, chuyện một bà mẹ có bốn đứa con trai trong thời kháng chiến.
Nhạc sĩ Lê Thương có tiếng về viết nhạc chuyện ca như Nàng Hà Tiên,
Lịch Sử Loài Người,
Hoa Thủy Tiên...
và còn thêm một số bài ca nhạc cho vài ban kịch và hãng phim.
Về sau, mỗi cách tuần Lê Thương và nhạc sĩ Lê Cao Phan phụ trách ban nhạc Măng Non cho trẻ em, phát thanh qua làn sóng điện các chuyện cổ tích, khúc dân ca, bài ca nhi đồng...
Ngoài ra Lê Thương còn có đặt lời cho những bản nhạc ngoại quốc ngắn như
Nhớ Lào (nhạc Lào),
Bông Hoa Đại tức Ô Đuồng Chăm Pá (nhạc Lào),
Lòng Trẻ Trai (nhạc Hoa Kỳ),
Hoa Anh Đào tức Sakura (cổ nhạc Nhật Bản),
Màn Brúc Đánh Giặc (dân ca Pháp)...
Một trong những loại nhạc được ông chú ý đến và sáng tác là nhạc Nhi Đồng và Thiếu Niên gồm những bản như Cô Bán Bánh,
Con Mèo Trèo Cây Cau,
Thằng Bé Tí Non,
Ông Nhang Bà Nhang,
Đây-Nhi Đồng Ca,
Truyền Kỳ Việt Sư,
û Thiếu Sinh Ca...
Có lẽ hầu như tất cả mọi người đều đã có nghe, biết bài hát Thằng Cuội:
Thằng Cuội
Ca sĩ: Ánh Tuyết
Bóng trăng trắng ngà
Có cây đa to
Có thằng Cuội già
Ôm một mối mơ
Lặng yên ta nói Cuội nghe
“Ở cung trăng mãi làm chi?”
Bóng trăng trắng ngà
Có cây đa to
Có thằng Cuội già
Ôm một mối mơ.
Một bản nhạc rất phổ thông ở các trường trung tiểu học là bài Học Sinh Hành Khúc:
Học Sinh Hành Khúc
Ca sĩ: Chưa rõ
Học sinh là người Tổ Quốc mong cho mai sau
Học sinh xây đời niên thiếu trên bao công lao...
Rồi đến bản nhạc ngộ nghĩnh Ông Ninh Ông Nang:
Ông Ninh Ông Nang
Ca sĩ: Tư Anh - Khúc Minh
Ông Nỉnh ông Ninh, ông ra đầu đình
Ông gặp ông Nảng ông Nang
Ông Nảng ông Nang, ông ra đầu làng
Ông gặp ông Nỉnh ông Ninh
Nang Ninh đầu đình
Và Ninh Nang đầu làng...
(Bài này ,tôi lấy một đoạn ,để múa trong vở kịch ""Tai .mắt mũi ...tham gia hội diễn "Minh họa tác phẩm văn học _đoạt giải nhì cấp Quận _Đội kịch được khen nức nở ..rằng ...sáng tạo ...không bê nguyên văn của tác phẩm .Một vở kịch ,tôi dựng ,không có kịch bản..Thầy trưởng ban giám khảo xin kịch bản ,tôi nói hỏng có ,,,Lời thoại theo ngẫu hứng ,,,nên không ghi lại ....Ông ấy lắc đầu ...kêu trời ...")
Và đến bài hát Tuổi Thơ thật dễ thương:
Tuổi Thơ
Ca sĩ: Xuân Nghi
Tuổi Thơ
Ca sĩ: Ánh Tuyết
Trời xanh xanh mát
Hương thơm thơm ngát
Cùng nhau ta múa điệu ca
Cùng nhau ta hát đời ta
Nhụy hoa thanh khiết
Men hoa ngây ngất
Hát cho tâm hồn được khuây
Cũng như cánh đẹp được bay
Sớm bắt bướm hái hoa kêu la nô đùa
Chiều lại ra dạo chơi vườn hoa
Tôi quyến luyến má ba vui ca bên đèn
Bẩy giờ đêm nằm ngủ mơ thấy tiên
(Bài này vào năm 2003_HS song ca ,tôi dựng múa minh họa _đoạt giải 3 cấp Quận )
Về nhạc Lê Thương, đáng bàn đến nhất là ba bản nhạc trong Trường Ca Hòn Vọng Phu.
Bằng âm điệu gần gũi âm giai Ngũ Cung của Dân Ca Việt Nam, với ảnh hưởng từ Chinh Phụ Ngâm Khúc của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm và Đặng Trần Côn, Hòn Vọng Phu 1 được ông viết tại Bến Tre, khoảng năm 1943.
Mở đầu bài hát, người chồng theo lệnh vua, ra mặt trận với tiếng trống thúc dục:
Lệnh vua hành quân trống kêu dồn
Quan với quân lên đường
Đoàn ngựa xe cuối cùng
Vừa đuổi theo lối sông
Phía cách quan xa trường
Quan với quân lên đường
Hàng cờ theo trống dồn
Ngoài sườn non cuối thôn
Phất phơ ngậm ngùi bay ...
Từ đó, xa cách muôn trùng:
...Người đi ngoài vạn lý quan sơn
Người mong chờ trong bóng cô đơn...
Cứ như vậy, người vợ ở lại ngày ngày ôm con, đứng đợi ngóng chồng trở về và cuối cùng cả hai mẹ con vì mòn mỏi chờ mãi đã hóa ra đá:
...Người không rời khỏi kiếp gian nan
Người biến thành tượng đá ôm con.
Sau đó, ông đã sáng tác thêm Hòn Vọng Phu 2 tức Ai Xuôi Vạn Lý khoảng năm 1946. Mẹ con người đàn bà hóa đá vẫn chờ mong. Giai điệu nhạc thật buồn:
Người vọng phu trong lúc gió mưa
Bế con đã hoài công để đứng chờ
Người chồng đi đã bao năm chưa thấy về
Đá mòn nhưng hồn chưa mòn giấc mơ...
...Mà chờ người đi mất từ ngàn xưa
Nàng đứng ôm con xem chàng về hay chưa?
Về hay chưa?
Có ai xuôi vạn lý, nhắn đôi câu giúp nàng
Lấy cây hương thật quý, thắp lên thương tiếc chàng...
Người đi chắc chả bao giờ quay lại:
...Thôi đứng đợi làm chi
Thời gian có hứa mấy khi
Sẽ đem đến trả đúng kỳ
Những người mang mệnh biệt ly.
Hòn Vọng Phu 3 tức Người Chinh Phu Về viết xong năm 1947. Mở đầu, vẫn còn hình ảnh não nề của tượng đá chờ trông:
Nơi phía Nam giữa núi mờ
Ai bế con mãi đứng chờ
Như nước non xưa đến giờ...
Và cuối cùng người chinh phu cưỡi ngựa trở về, âm điệu dòng nhạc như tiếng ngựa phi:
Đường chiều mịt mù, cát bay tỏa bước ngựa phi đường trường
Nếp tàn y hùng cường, vẫn còn bay trong gió bóng từ xa, sắp dần qua
Bóng chàng chập chùng, vượt núi non cũ, với hành lương độ đường
Chiếc hùng gươm danh tướng dưới tà uy đếm nhịp đi, vó ngựa phi...
Nhưng cuộc trở về đã quá muộn màng, ai oán:
...Nhớ cố hương lưu luyến tấc lòng mau dồn chân
Vết bước đi trên phiến đá mòn còn in dấu
Từ bóng cây ngôi mộ bên đường
Từ mái tranh bên đình trong làng
Nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống
Bao mối thương vang động trong lòng.
Tác phẩm tuyệt diệu, lớn lao và bất diệt Trường Ca Hòn Vọng Phu, đã làm nổi bật tên tuổi của nhạc sĩ Lê Thương trong lịch sử Âm Nhạc Việt Nam...
Sưu tầm ...tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét