Thứ Bảy, 22 tháng 12, 2012

Ngày xuân đọc lại Tương tư của Nguyễn Bính



       Nguyn Phượng
  Khoa Ng
 Văn Đi hc Sư phm Hà Ni
Nguyễn Bính (1918-1966 ) tên thật là Nguyễn Trọng Bính sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo ở làng Thiện Vịnh, xã Đồng Đội ( nay là xã Cộng Hoà ) huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

Mồ côi mẹ từ nhỏ, hơn mười tuổi, Nguyễn Bính đã phải theo anh lên Hà Đông kiếm sống. Ông biết làm thơ rất sớm, 13 tuổi đã sáng tác được hàng trăm bài. Đến năm 19 tuổi được Ban giải thưởng văn chương đầy uy tín của Tự lực văn đoàn khen tng về tập thơTâm hồn tôi. Liền trong 3 năm từ 1940-1942, Nguyễn Bính nổi danh trên thi đàn bởi đã xuất bản liên tục 6 tập thơ ( Lỡ bước sang ngang, 1940; Hương cốnhân, 1941; Một nghìn cửa sổ, 1941; Người con gáiở lầu hoa, 1942; Mười hai bến nước, 1942; Mây tần, 1942 ) vạch ra một hướng đi riêng trong sáng tạo và thu hút một lượng công chúng thơ đông đảo vào bậc nhất lúc bấy giờ. Sức hấp dẫn của thơ Nguyễn Bính chủ yếu ở những ảo mộng thành thực đẹp và buồn được dệt từ một tâm hồn chân quê đằm thắm, duyên dáng vốn (theo Hoài Thanh) gắn bó rất sâu với “ hồn xưa của đất nước”.   

Do hoàn cảnh riêng, tuổi thanh niên của Nguyễn Bính trải qua nhiều sóng gió, phiêu bạt và ông từng đi đây đi đó nhiều nơi. Phần trải nghiệm này in dấu lên mảng thơ diễn tả nỗi hoài hương khắc khoải, da diết, bi phẫn nhiều khi đượm vị chua chát, đắng cay mà vẫn đầy hấp dẫn bởi phong thái của một khách giang hồlãng tử ngông nghênh, phóng túng, tài hoa...

Năm 1943, ông trở lại Nam bộ, sống cuộc đời phóng túng, tự do trong bần hàn rồi ở đó tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp cho đến 1954 thì tập kết ra Bắc tham gia công tác báo chí và văn học ở Hà Nội, Nam Định. Ông mất đột ngột vào đúng ngày 30 Tết trước khi bước vào năm mới tại nhà một người bạn ở Hà Nam.

Về hành trình học vấn, khác với nhiều người cùng thếhệ, Nguyễn Bính không đi học trường công của nhà nước mà chỉ học ở nhà với cha và cậu. Có thể do điểm đặc biệt này trong cuộc đời mà Nguyễn Bính ít chịu ảnh hưởng thơ phương Tây như một số thi sĩ cùng thời xuất thân Tây học.

Bài Tương tư được viết năm 1939, in trong tập Lỡbước sang ngang, 1940, được coi là một trong những sáng tác tiêu biểu cho phong cách thơ chân quê của Nguyễn Bính.

Nỗi nhớ mong trong bài thơ đích thực là nỗi nhớmong của tình yêu, nhưng không phải là nỗi nhớ từmột tình yêu song phương mà là nỗi nhớ của một tình yêu đơn phương. Nỗi nhớ này được diễn tả theo hình thức tăng cấp. Lúc đầu chỉ được gợi lên bằng một từ“ nhớ” ( câu thơ đầu ) đến câu thơ tiếp theo đã chuyển hoá thành hai trạng thái “ nhớ” và “ mong”. Đối tượng của nỗi nhớ thường là những hình ảnh đã qua, thuộc về quá khứ. Đối tượng của niềm mong thường là những hình ảnh thuộc về hiện tại hoặc tương lai, là sự chờ đợi những điều có thể sẽ tới xoa dịu nỗi nhớ mặc dù, trên thực tế, có khi những điều đó không bao giờ tới. Dù thế nào, hai cung bậc của cảm xúc nhớ và mong cũng sẽ đưa nhân vật trữ tình vào một không gian của đợi chờ khắc khoải, da diết.Ở đây nỗi nhớ mong trên không phải nỗi nhớ mong bình thường mà là nỗi mong nhớ được diễn tả với một cường độ thật lớn: chín nhớ, mười mong! Cách dùng các số từ trong câu thơ: Một người chín nhớmười mong...là học theo lối cường điệu dân gian, ngoa ngôn mà thành thực. Chưa kể, nó vừa diễn tảtính chất cao độ của một trạng thái tâm lý, vừa miêu tả tính chất tăng tiến không ngừng của trạng thái tâm lý đó. Một nỗi nhớ như thế sớm muộn sẽ đưa chủ thểcủa nó vào một trạng huống không bình thường của đời sống nội tâm. Ta chỉ có thể gọi đích danh là “ bệnh tương tư” và, nhân vật trữ tình cũng đã tự nhận như thế. Bệnh, dù bất cứ là bệnh gì, đều gây đau đớn.

Bệnh tương tư thì không chỉ gây đau đớn mà còn giày vò, thiêu đốt trái tim “ con bệnh” khiến cho anh chàng ( trong bài thơ ) hết sức khốn khổ vì yêu.

Tuy nhiên, con bệnh của tình yêu thì khác các con bệnh thông thường. Đó là người ta vừa cảm thấy khổsở, thậm chí khổ sở đến mức không chịu đựng nổi vì nỗi nhớ nhung của tình yêu giày vò lại vừa có cái sởthích oái ăm là vẫn cứ mong được sống mãi trong nỗi nhung nhớ đó mà không hề có ý định “ điều trị” bằng cách lãng quên.

Có cách nào để thanh toán nỗi khổ tương tư? Không có cách nào cả. Chỉ có cách xoa dịu bng những lời thở than và trách móc mà thôi. Nhng lời than thở, trách móc ( dường như để cân bằng với nỗi khổtương tư ) nên cũng trải qua các cung bậc theo hình thức tăng cấp. Lúc đầu mới chỉ là một câu chất vấn: Cớ sao? Tiếp đến là niềm nuối tiếc thời gian trôi đi hờhững: Ngày qua ngày lại qua ngày...Ri dồn dập những lời trách cứ : Bảo rằng, đã đành, nhưng đây...Cuối cùng là thở dài trong oán, hờn và giận : Có xa xôi mấy mà tình xa xôi...

Những lời thở than, trách móc trên kia còn là vì một lý do hết sức quan trọng : tình yêu ấy dẫu mãnh liệt đến thế nhưng chưa được đền đáp.

Nhưng đọc và suy ngẫm kỹ sẽ thấy thực chất của những lời trách móc, than thở trên cũng chỉ là những biến thái của nỗi tương tư mà thôi, nếu ta cùng thừa nhận rằng tương tư trong tình yêu đơn phương là sựvận động của một chuỗi những hy vọng và thất vọng. Thì đây, đã hy vọng hai thôn chung lại một làng thì...thế mà bên ấy chẳng sang bên này. Đã hy vọng mỗi ngày qua, một ngày mới đến tình trạng đợi chờsẽ chấm dứt, thế mà từ xuân tới hạ rồi sang thu mọi mong đợi vẫn lửng lơ tận chân trời. Đã hy vọng không cách trở đò giang, chỉ cách một đầu đình thôi thì mọi chuyện sẽ dễ dàng thế mà...không gian không xa nhưng tình thì xa vời vợi.

Người đồng bệnh với Nguyễn Bính, Xuân Diệu, tác giả của một bài thơ khá nổi tiếng có nhan đề Tương tư chiều rõ ràng có cách bộc lộ nỗi nhớ rất khác, mới mẻ và hiện đại:

Ba nay lnh mt tri đi ng sm
Anh nh
 em, em hi, anh nh em...

Khi nỗi nhớ dâng lên cao độ trong lòng thì cách diễn tả cảm xúc càng ồn ào:

Anh nh tiếng, anh nh hình, anh nh nh...
Anh nh
 em, nh lm, em ơi!

Nguyễn Bính khác, cách bày tỏ tình yêu của ông mang tính cách của người chân quê. Trước hết ở thái độ kín đáo, rụt rè, mượn cách nói vòng tế nhị : thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/ Một người chín nhớ mười mong một người...

Kể cả khi tình cảm dâng lên mãnh liệt vẫn giữ một thái độ khiêm nhường, chỉ biết than thở với chính mình: Tương tư thức mấy đêm rồi/ Biết cho ai, hỏi ai người biết cho/ Bao giờ bến mới gặp đò/ Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?

Giọng điệu và ngôn ngữ thơ dân dã, bình dị: Hai thôn chung lại một làng; cớ sao? bảo rằng, đã đành, nhà em có một giàn giầu; nhà anh có một hàng cau...

Cách so sánh, ví von mang đậm phong cách dân gian: chín nhớ mười mong, cách trở đò giang, bao giờ bến mới gặp đò, hoa khuê các, bướm giang hồ, ...

Một thanh niên sống trong thời đại của giao lưu văn hoá Đông Tây, của sự bùng nổ ý thức về cá nhân và đặc biệt đúng vào lúc luồng gió lãng mạn đang ào ạt thổi tới, vậy mà trong lĩnh vực tình cảm vẫn giữnguyên những nét thuần hậu của xa xưa như thế phải được coi là một trường hợp đặc biệt.

Nhà phê bình Hoài Thanh đã rất tinh tế khi nhận xét rằng: trong thơ Nguyễn Bính có “ hồn xưa đất nước”.

Trước hết cần phải hiểu thế nào là “ hồn xưa đất nước”. Muốn hiểu khái niệm “ hồn xưa đất nước” theo cách diễn đạt của Hoài Thanh ta lại phải đc tiểu luận nhan đề : “ Một thời đại trong thi ca” của chính Hoài Thanh, trong đó, cần chú ý đoạn: “ ...Phương Tây bây giờ đã đi tới chỗ sâu nhất trong hồn ta. Ta không còn có thể vui cái vui ngày trước, buồn cái buồn ngày trước, yêu, ghét, giận, hờn nhất nhất như ngày trước. Đã đành ta chỉ có chừng ấy mối tình như con người muôn nơi và muôn thuở. Nhưng sống trên đất Việt Nam ở đầu thế kỷ hai mươi, những mối tình của ta không khỏi có cái màu sắc riêng, cái dáng dấp riêng của thời đại...” ( Thi nhân Việt Nam, nxb Văn học, 2000, tr.19).

Theo Hoài Thanh, đã có một sự thay đổi tận gốc trong tâm tư, suy nghĩ của cả một thế hệ. Đến mức người ta “ không còn có thể vui cái vui ngày trước, buồn cái buồn ngày trước” được nữa.

Đó là nói chung về một thế hệ, thế hệ các nhà thơmới 1932-1945. Còn riêng với Nguyễn Bính thì khác. Ông có vẻ như chẳng có gì thay đổi trong tâm tư và suy nghĩ. Trong cách bộc lộ tình cảm, lối ví von, và sửdụng hình ảnh ông vẫn giữ nguyên cái phong cách chân quê đã được kết tinh qua my trăm năm trong thơ ca dân gian. Trong nỗi nhớ nhung của tình yêu của một chàng trai ở đầu thế kỷ hai mươi, Nguyễn Bính không khước từ cách nói vòng của dân gian : thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/ Một người chín nhớmười mong...ông còn dùng nhiu cách nói theo lối khẩu ngữ của người nhà quê : Hai thôn chung lại một làng, bảo rằng cách trở đò ngang, nhà em có một giàn giầu/ nhà anh có một hàng cau liên phòng...

Hoài Thanh ngạc nhiên và cho rằng : “ thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta”. Nhưng tinh tế và chính xác hơn, ông còn cho rằng : đằng sau những câu thơ bình dị ấy có “ hồn xưa của đất nước”. Và ông đã đúng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thứ Bảy, 22 tháng 12, 2012

Ngày xuân đọc lại Tương tư của Nguyễn Bính



       Nguyn Phượng
  Khoa Ng
 Văn Đi hc Sư phm Hà Ni
Nguyễn Bính (1918-1966 ) tên thật là Nguyễn Trọng Bính sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo ở làng Thiện Vịnh, xã Đồng Đội ( nay là xã Cộng Hoà ) huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

Mồ côi mẹ từ nhỏ, hơn mười tuổi, Nguyễn Bính đã phải theo anh lên Hà Đông kiếm sống. Ông biết làm thơ rất sớm, 13 tuổi đã sáng tác được hàng trăm bài. Đến năm 19 tuổi được Ban giải thưởng văn chương đầy uy tín của Tự lực văn đoàn khen tng về tập thơTâm hồn tôi. Liền trong 3 năm từ 1940-1942, Nguyễn Bính nổi danh trên thi đàn bởi đã xuất bản liên tục 6 tập thơ ( Lỡ bước sang ngang, 1940; Hương cốnhân, 1941; Một nghìn cửa sổ, 1941; Người con gáiở lầu hoa, 1942; Mười hai bến nước, 1942; Mây tần, 1942 ) vạch ra một hướng đi riêng trong sáng tạo và thu hút một lượng công chúng thơ đông đảo vào bậc nhất lúc bấy giờ. Sức hấp dẫn của thơ Nguyễn Bính chủ yếu ở những ảo mộng thành thực đẹp và buồn được dệt từ một tâm hồn chân quê đằm thắm, duyên dáng vốn (theo Hoài Thanh) gắn bó rất sâu với “ hồn xưa của đất nước”.   

Do hoàn cảnh riêng, tuổi thanh niên của Nguyễn Bính trải qua nhiều sóng gió, phiêu bạt và ông từng đi đây đi đó nhiều nơi. Phần trải nghiệm này in dấu lên mảng thơ diễn tả nỗi hoài hương khắc khoải, da diết, bi phẫn nhiều khi đượm vị chua chát, đắng cay mà vẫn đầy hấp dẫn bởi phong thái của một khách giang hồlãng tử ngông nghênh, phóng túng, tài hoa...

Năm 1943, ông trở lại Nam bộ, sống cuộc đời phóng túng, tự do trong bần hàn rồi ở đó tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp cho đến 1954 thì tập kết ra Bắc tham gia công tác báo chí và văn học ở Hà Nội, Nam Định. Ông mất đột ngột vào đúng ngày 30 Tết trước khi bước vào năm mới tại nhà một người bạn ở Hà Nam.

Về hành trình học vấn, khác với nhiều người cùng thếhệ, Nguyễn Bính không đi học trường công của nhà nước mà chỉ học ở nhà với cha và cậu. Có thể do điểm đặc biệt này trong cuộc đời mà Nguyễn Bính ít chịu ảnh hưởng thơ phương Tây như một số thi sĩ cùng thời xuất thân Tây học.

Bài Tương tư được viết năm 1939, in trong tập Lỡbước sang ngang, 1940, được coi là một trong những sáng tác tiêu biểu cho phong cách thơ chân quê của Nguyễn Bính.

Nỗi nhớ mong trong bài thơ đích thực là nỗi nhớmong của tình yêu, nhưng không phải là nỗi nhớ từmột tình yêu song phương mà là nỗi nhớ của một tình yêu đơn phương. Nỗi nhớ này được diễn tả theo hình thức tăng cấp. Lúc đầu chỉ được gợi lên bằng một từ“ nhớ” ( câu thơ đầu ) đến câu thơ tiếp theo đã chuyển hoá thành hai trạng thái “ nhớ” và “ mong”. Đối tượng của nỗi nhớ thường là những hình ảnh đã qua, thuộc về quá khứ. Đối tượng của niềm mong thường là những hình ảnh thuộc về hiện tại hoặc tương lai, là sự chờ đợi những điều có thể sẽ tới xoa dịu nỗi nhớ mặc dù, trên thực tế, có khi những điều đó không bao giờ tới. Dù thế nào, hai cung bậc của cảm xúc nhớ và mong cũng sẽ đưa nhân vật trữ tình vào một không gian của đợi chờ khắc khoải, da diết.Ở đây nỗi nhớ mong trên không phải nỗi nhớ mong bình thường mà là nỗi mong nhớ được diễn tả với một cường độ thật lớn: chín nhớ, mười mong! Cách dùng các số từ trong câu thơ: Một người chín nhớmười mong...là học theo lối cường điệu dân gian, ngoa ngôn mà thành thực. Chưa kể, nó vừa diễn tảtính chất cao độ của một trạng thái tâm lý, vừa miêu tả tính chất tăng tiến không ngừng của trạng thái tâm lý đó. Một nỗi nhớ như thế sớm muộn sẽ đưa chủ thểcủa nó vào một trạng huống không bình thường của đời sống nội tâm. Ta chỉ có thể gọi đích danh là “ bệnh tương tư” và, nhân vật trữ tình cũng đã tự nhận như thế. Bệnh, dù bất cứ là bệnh gì, đều gây đau đớn.

Bệnh tương tư thì không chỉ gây đau đớn mà còn giày vò, thiêu đốt trái tim “ con bệnh” khiến cho anh chàng ( trong bài thơ ) hết sức khốn khổ vì yêu.

Tuy nhiên, con bệnh của tình yêu thì khác các con bệnh thông thường. Đó là người ta vừa cảm thấy khổsở, thậm chí khổ sở đến mức không chịu đựng nổi vì nỗi nhớ nhung của tình yêu giày vò lại vừa có cái sởthích oái ăm là vẫn cứ mong được sống mãi trong nỗi nhung nhớ đó mà không hề có ý định “ điều trị” bằng cách lãng quên.

Có cách nào để thanh toán nỗi khổ tương tư? Không có cách nào cả. Chỉ có cách xoa dịu bng những lời thở than và trách móc mà thôi. Nhng lời than thở, trách móc ( dường như để cân bằng với nỗi khổtương tư ) nên cũng trải qua các cung bậc theo hình thức tăng cấp. Lúc đầu mới chỉ là một câu chất vấn: Cớ sao? Tiếp đến là niềm nuối tiếc thời gian trôi đi hờhững: Ngày qua ngày lại qua ngày...Ri dồn dập những lời trách cứ : Bảo rằng, đã đành, nhưng đây...Cuối cùng là thở dài trong oán, hờn và giận : Có xa xôi mấy mà tình xa xôi...

Những lời thở than, trách móc trên kia còn là vì một lý do hết sức quan trọng : tình yêu ấy dẫu mãnh liệt đến thế nhưng chưa được đền đáp.

Nhưng đọc và suy ngẫm kỹ sẽ thấy thực chất của những lời trách móc, than thở trên cũng chỉ là những biến thái của nỗi tương tư mà thôi, nếu ta cùng thừa nhận rằng tương tư trong tình yêu đơn phương là sựvận động của một chuỗi những hy vọng và thất vọng. Thì đây, đã hy vọng hai thôn chung lại một làng thì...thế mà bên ấy chẳng sang bên này. Đã hy vọng mỗi ngày qua, một ngày mới đến tình trạng đợi chờsẽ chấm dứt, thế mà từ xuân tới hạ rồi sang thu mọi mong đợi vẫn lửng lơ tận chân trời. Đã hy vọng không cách trở đò giang, chỉ cách một đầu đình thôi thì mọi chuyện sẽ dễ dàng thế mà...không gian không xa nhưng tình thì xa vời vợi.

Người đồng bệnh với Nguyễn Bính, Xuân Diệu, tác giả của một bài thơ khá nổi tiếng có nhan đề Tương tư chiều rõ ràng có cách bộc lộ nỗi nhớ rất khác, mới mẻ và hiện đại:

Ba nay lnh mt tri đi ng sm
Anh nh
 em, em hi, anh nh em...

Khi nỗi nhớ dâng lên cao độ trong lòng thì cách diễn tả cảm xúc càng ồn ào:

Anh nh tiếng, anh nh hình, anh nh nh...
Anh nh
 em, nh lm, em ơi!

Nguyễn Bính khác, cách bày tỏ tình yêu của ông mang tính cách của người chân quê. Trước hết ở thái độ kín đáo, rụt rè, mượn cách nói vòng tế nhị : thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/ Một người chín nhớ mười mong một người...

Kể cả khi tình cảm dâng lên mãnh liệt vẫn giữ một thái độ khiêm nhường, chỉ biết than thở với chính mình: Tương tư thức mấy đêm rồi/ Biết cho ai, hỏi ai người biết cho/ Bao giờ bến mới gặp đò/ Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?

Giọng điệu và ngôn ngữ thơ dân dã, bình dị: Hai thôn chung lại một làng; cớ sao? bảo rằng, đã đành, nhà em có một giàn giầu; nhà anh có một hàng cau...

Cách so sánh, ví von mang đậm phong cách dân gian: chín nhớ mười mong, cách trở đò giang, bao giờ bến mới gặp đò, hoa khuê các, bướm giang hồ, ...

Một thanh niên sống trong thời đại của giao lưu văn hoá Đông Tây, của sự bùng nổ ý thức về cá nhân và đặc biệt đúng vào lúc luồng gió lãng mạn đang ào ạt thổi tới, vậy mà trong lĩnh vực tình cảm vẫn giữnguyên những nét thuần hậu của xa xưa như thế phải được coi là một trường hợp đặc biệt.

Nhà phê bình Hoài Thanh đã rất tinh tế khi nhận xét rằng: trong thơ Nguyễn Bính có “ hồn xưa đất nước”.

Trước hết cần phải hiểu thế nào là “ hồn xưa đất nước”. Muốn hiểu khái niệm “ hồn xưa đất nước” theo cách diễn đạt của Hoài Thanh ta lại phải đc tiểu luận nhan đề : “ Một thời đại trong thi ca” của chính Hoài Thanh, trong đó, cần chú ý đoạn: “ ...Phương Tây bây giờ đã đi tới chỗ sâu nhất trong hồn ta. Ta không còn có thể vui cái vui ngày trước, buồn cái buồn ngày trước, yêu, ghét, giận, hờn nhất nhất như ngày trước. Đã đành ta chỉ có chừng ấy mối tình như con người muôn nơi và muôn thuở. Nhưng sống trên đất Việt Nam ở đầu thế kỷ hai mươi, những mối tình của ta không khỏi có cái màu sắc riêng, cái dáng dấp riêng của thời đại...” ( Thi nhân Việt Nam, nxb Văn học, 2000, tr.19).

Theo Hoài Thanh, đã có một sự thay đổi tận gốc trong tâm tư, suy nghĩ của cả một thế hệ. Đến mức người ta “ không còn có thể vui cái vui ngày trước, buồn cái buồn ngày trước” được nữa.

Đó là nói chung về một thế hệ, thế hệ các nhà thơmới 1932-1945. Còn riêng với Nguyễn Bính thì khác. Ông có vẻ như chẳng có gì thay đổi trong tâm tư và suy nghĩ. Trong cách bộc lộ tình cảm, lối ví von, và sửdụng hình ảnh ông vẫn giữ nguyên cái phong cách chân quê đã được kết tinh qua my trăm năm trong thơ ca dân gian. Trong nỗi nhớ nhung của tình yêu của một chàng trai ở đầu thế kỷ hai mươi, Nguyễn Bính không khước từ cách nói vòng của dân gian : thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/ Một người chín nhớmười mong...ông còn dùng nhiu cách nói theo lối khẩu ngữ của người nhà quê : Hai thôn chung lại một làng, bảo rằng cách trở đò ngang, nhà em có một giàn giầu/ nhà anh có một hàng cau liên phòng...

Hoài Thanh ngạc nhiên và cho rằng : “ thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta”. Nhưng tinh tế và chính xác hơn, ông còn cho rằng : đằng sau những câu thơ bình dị ấy có “ hồn xưa của đất nước”. Và ông đã đúng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét